Truyện ngắn của nhà văn Phạm Ngọc Tiến: Thăm thẳm vòng đời

Phạm Ngọc Tiến - Thứ Ba, 28/01/2025 , 06:00 (GMT+7)

Non tháng nữa là Tết nhưng nắng cứ vàng rờ rỡ cả ngày, còn may trời vẫn se se lạnh lúc cuối chiều nên cữ đạp xe thể thao thường nhật của ông Cả Ngưỡng xem ra nhàn nhã khác hẳn ngày hè nóng nực hay tiết thu thất thường khi oi nồng lúc mát mẻ.

Minh họa: Nguyễn Hữu Khoa.

Dừng xe ở đỉnh đê, bao giờ cũng thế ông dắt xe đi xuống dốc con đường xóm Bãi và dừng lại ở cuối dốc, tựa xe vào gốc muỗm đại thụ sum suê, lột bỏ mũ bảo hiểm, lấy khăn lau mồ hôi. Cả Ngưỡng vừa làm một cuốc đạp ngót nghét dăm chục cây số đường đê. Đây là cung đường cố định hàng ngày ông đạp bất kể thời tiết trong năm thế nào.

Đã vào tuổi bẩy mươi nhưng Cả Ngưỡng khí lực còn tràn trề, vóc dáng vạm vỡ, vai bè, ngực vồng nổi như bát úp, bụng phẳng, mông ụn. Ấy là nhờ ông chăm chỉ thể thao luyện rèn thân xác. Làng Kình bao năm nay khét khèn khẹt tiếng tăm Cả Ngưỡng trong nhiều lĩnh vực trong đó đáng kể là cái sự bơi sông sáng và đạp xe chiều. Mỗi sáng, Cả Ngưỡng vùng vẫy bơi phải vài lượt qua lại ngang sông Hồng và buổi chiều thì ông guồng đủ cung đường đã định.

Đang phe phẩy cái khăn mặt để tạo gió cho thoáng chợt Cả Ngưỡng giật nảy mình vì cụ Bường từ trong ngõ chống gậy đi ra đứng sững ngay trước mặt. Cụ Bường cùng trang với bố Cả Ngưỡng năm nay kém mấy tuổi là đầy bách niên. Cụ nhìn thẳng vào cả Ngưỡng, giọng cụ vẫn tròn vành rõ tiếng:

- Anh Cả Ngưỡng đấy à, tôi muốn nói với anh mấy lời này, mấy lời thôi….

*

* *

Tối hôm đó Cả Ngưỡng ngồi khật khừ trước mâm cơm chị Bỉnh giúp việc dọn ra mà không nuốt nổi miếng nào chỉ nốc rượu suông. Nhõn mỗi món cá ngạnh om với con vờ là đặc sản sông Hồng, Cả Ngưỡng nghiện lâu nay đã dặn chị Bỉnh làm từ chiều. Cay quá, đắng quá, đau quá những lời cụ Bường nói lúc ở gốc muỗm. Cây muỗm đó cỡ trăm tuổi có từ lúc cụ Chánh Ngung là ông nội Cả Ngưỡng dạo còn trẻ khi dỡ bè gỗ buôn của nhà ở bãi sông thấy nhu nhú cái mầm xanh cứng cáp bám ở kẽ những thân gỗ bèn bứng lên mang về nhà trồng. Chẳng biết bằng cách nào lại có cây muỗm lạc lên bè gỗ để rồi nó đứng ở vườn nhà cụ Chánh Ngung dằng dặc thời gian thành chứng nhân của nhiều thế hệ người làng Kình. Cái vườn nhà ấy cùng ngôi nhà to nhất làng Kình ở xóm Bãi của cụ Chánh Ngung đận cải cách bị tịch thu dỡ ra chia cho mấy hộ cốt cán trong đó có nhà cụ Bường. Đận ấy cụ Bường tham gia du kích xã là cốt cán tích cực. Riêng cây muỗm lúc đó đã là đại thụ cao lớn sừng sững, thân gốc xù xì nhám mốc thời gian, không thể chia và cũng chẳng ai dám hạ nó xuống nên làng Kình giờ còn có một bóng mát miễn phí cho người và mồi cho chim chóc và con trẻ khi vào vụ quả chín.

Nhìn thấy chị Bỉnh thập thò dáng chừng xem ông chủ có cần sai bảo gì không, Cả Ngưỡng phẫy tay. Đấy là cách Cả Ngưỡng báo hiệu đừng làm phiền. Đã quen nên chị Bỉnh đi ngay vào trong. Tối nay nhà tịnh chả có ai. Đám con gái 3 đứa lấy chồng thập phương quanh năm suốt tháng thi thoảng mới cho con đáo về thăm ông. Thằng Út Ngưởng giờ là đại gia có máu mặt đất nước đi đâu tiền hô hậu ủng người xe rầm rập nhẽ cuối tuần thế này phải cùng vợ con có mặt ở nhà nhưng cũng mất mặt vì công chuyện gì đó. Hồi chiều con vợ thằng Ngưởng gọi điện xin phép ông không về vì đứa con gái bị sốt. Đã thành quy định bất di bất dịch dù ở biệt thự to vật vã ở phố trung tâm trong thành phố nhưng mỗi cuối tuần thằng Ngưởng và vợ con phải về khu trại của ông để quần tụ gia đình.

Vợ Cả Ngưỡng họ Nguyễn cũng người làng Kình cùng lứa thò lò mũi xanh, quần thủng đít với ông về làm dâu họ Phạm theo sắp đặt của bố ông. Ngày ấy mới ở chiến trường ra mặt sốt rét còn xanh hơn đít ễnh ương ở ẩn nhưng cụ Hai Ngật đã ép ông lấy vợ. Lấy ai không lấy lại lấy con bé họ hàng với nhà cụ Bường cốt cán được thừa hưởng một phần quả thực được chia là đất hương hỏa nhà ông. Nhưng đó là chủ ý của cụ Hai Ngật, chuyện sẽ nói sau. Được cái, con bé Na nhỏ nhắn xinh gái ưa nhìn và đảm đang cùng nết mắn đẻ. Ăn ở với nhau bốn mặt con vất vả cả đời đến lúc có của ăn của để, an nhàn dưỡng già thì bà Na bất ngờ nằng nặc đòi ra tòa ly hôn với Cả Ngưỡng. Ba chị con gái tá hỏa vì sự cố bất ngờ này nhưng cậu Út Ngưởng thì bình thản nói như người không phải dây mơ rễ má, đại loại hết duyên thì chia tay, bố mẹ muốn như thế nào con cũng chiều được hết. Cũng chính Út Ngưởng sắp xếp mọi chuyện êm thấm. Bà Na không đòi chia khu trại nơi bà dành gần như cả đời cùng nhà chồng gây dựng lên. Chiều ý mẹ, Út Ngưởng thu xếp cho bà một suất nhà riêng biệt trong Trại dưỡng lão ở vùng bán sơn địa để bà sống những năm tháng cuối đời. Cả Ngưỡng sụm hẳn vì cái sự ông cho là tréo ngoe này và phải mất đến năm trời mới gượng lại nổi. Cũng chính vợ chồng Út Ngưởng kiếm tìm cho ông một người giúp việc là chị Bỉnh. Ngoài bốn mươi tuổi, chị Bỉnh không chồng con, khỏe mạnh, chẳng vướng bận họ hàng, gia đình, về ở hẳn khu trại vừa là giúp việc vừa như quản gia chăm sóc Cả Ngưỡng và trông nom công việc.

Uống chán chê mê mỏi nhưng Cả Ngưỡng vẫn tỉnh queo mắt đăm đắm nhìn ra sông. Khu trại nằm biệt lập sát sông của gia đình Cả Ngưỡng xưa chỉ là cồn gò bờ bãi hoang hóa giờ như một resort sang trọng cây cối tươi tốt, nhà gỗ dài rộng và đẹp gấp nhiều lần ngôi nhà bị dỡ dạo cải cách. Diện tích khu trại rộng đến mấy héc ta có hàng rào chắc chắn bao quanh ở thời điểm hiện tại là cả một gia sản khổng lồ khiến thiên hạ phải lác sệch mắt, tấm tắc thèm thuồng lẫn cả đố kỵ, ghen ghét.

Trong khu trại, Cả Ngưỡng trồng nhiều loại cây ăn quả, rau màu để bán, mùa nào thức nấy và đào một cái đầm rộng rãi nước sâu để thả cá thịt và trồng sen ở một góc đầm làm cảnh. Khu chăn nuôi với đủ loại gia cầm, mỗi lần thu hoạch thịt hay trứng phải dùng xe tải to chuyên chở. Riêng đàn lợn đã vài trăm con liên tục xuất chuồng. Phân lợn thải ra, thân cây, cuống trái… tất tần tật được thu gom trong hầm chứa chế thành phân bón hữu cơ quay vòng trồng rau bón cây vừa sạch môi trường vừa chả mất đi đâu dù là cọng rau. Đất bãi chỉ trồng được rau màu không trồng được lúa nên duy nhất món gạo là Cả Ngưỡng phải cho du nhập vào khu trại còn thì tất tần tật tự cung tự cấp. Để duy trì vận hành khu trại, Cả Ngưỡng thuê nguyên một đội cỡ chục người là nhân công trong làng ăn lương công nhật. Hàng ngày những người làm công đến làm việc ở khu trại tối về nhà nghỉ có bảng chấm công, bảng lương hẳn hoi do một đứa cháu bên vợ điều hành. Ngay cả thằng cháu hết giờ làm cũng phải ra khỏi trại và khi hết người làm, chị Bỉnh giúp việc bắt đầu đóng cửa thả chó.

Đàn chó vài chục con làm chủ khu trại đến sáng không một kẻ trộm nào dám đột nhập vì đàn chó cực hung dữ. Chỉ là chó ta chứ Cả Ngưỡng không chuộng những loài chó lạ nhập khẩu. Chó ta nhưng được nuôi kiểu bầy đàn nên hầu như chúng thuần giữ được những đặc tính hoang dã bản năng.

Dân làng Kình lâu nay nhất là những người cao tuổi khi nói về khu trại đều so sánh Cả Ngưỡng với cụ Chánh Ngung. Địa chủ như cụ Chánh năm xưa cũng chưa chắc đã bằng được Cả Ngưỡng. Mươi mẫu ruộng diện tích cũng chỉ xấp xỉ đất khu trại thêm cái nghề buôn bè gỗ nhưng chắc gì Cụ Chánh đã hơn thu nhập của Cả Ngưỡng chưa kể cụ còn phải nai lưng ra làm cật lực chứ đâu được ra dáng ông chủ như cháu nội bây giờ.

Cả Ngưỡng rời mâm bê cốc rượu ra hiên hè ngồi đăm đắm nhìn ra sông. Nồi cá ngạnh om đặt trên bếp từ đã cạn nước nhưng vẫn còn nguyên chưa đụng đũa. Tiết đông, khúc sông trước mặt lừ ngừ mờ mịt sương khói. Trí óc Cả Ngưỡng lúc này vẫn ám ảnh những câu nói của cụ Bường. Ký ức ngần ấy năm bằng cả đời người vẫn cứ đeo bám mãi chẳng chịu buông tha.

Ngày ấy, một năm sau hòa bình 54, Cả Ngưỡng mới tròn một tuổi. Nghe kể lại khi sinh ra mẹ Cả Ngưỡng mất sữa nên có tận hai vú em trông nom cậu ấm. Hai Ngật bố Cả Ngưỡng đang trong quân đội, cán bộ cấp tiểu đoàn đánh Điện Biên xong về tiếp quản Thủ đô và đóng quân trong thành, lâu lâu đôi tháng được về nhà một lần. Cả Ngưỡng là đích tôn của dòng họ Phạm. Cụ Chánh Ngung mất trước đó mấy năm nên không kịp gặp thằng cháu đích tôn của dòng họ. Sở dĩ có danh “Chánh” kèm tên là vì đã khá lâu trước đó cụ làm một kỳ Chánh hương hội nghĩa là đứng đầu Hội đồng Tộc biểu ở làng Kình. Cụ Chánh Ngung có nghề buôn gỗ gia truyền làm ăn phát đạt nên tích cóp được khá nhiều của cải. Ngoài tài sản bề nổi, cụ còn chục mẫu ruộng nhất đẳng điền phía trong đê và không ít người ăn kẻ ở. Cụ Chánh Ngung mất vì bệnh, cai quản gia tộc đều nơi tay cụ Chánh bà.

Cơn bão cải cách tràn về làng Kình. Ngôi nhà to, vườn rộng kèm chục mẫu ruộng đương nhiên cụ Chánh Ngung dù đã chết vẫn bị quy là địa chủ. Có hai con trai tham gia Cách mạng, một liệt sĩ, một sĩ quan đương chức nên cụ Chánh không thuộc vào thành phần nợ máu nhưng thành phần bóc lột hiển nhiên là không thể chượi. Nhờ con cái nên cụ Chánh không bị đấu tố khốc liệt như những địa chủ khác nhưng tài sản toàn bộ bị tịch thu. Đã nói ở trên, căn nhà gỗ được dỡ ra cùng nền nhà và đất vườn được chia cho mấy hộ cốt cán. Cụ Chánh bà cùng con dâu và mấy cô con gái được chính quyền cho ở tạm căn nhà ngang không bõ dỡ, trước khi tìm nơi ở mới.

Nhận được tin nhà, Hai Ngật từ đơn vị về. Đứng lặng trên nền nhà cũ giờ đã thuộc về những chủ nhân khác và dường như không chịu nổi tiếng khóc ngằn ngặt đói sữa của Cả Ngưỡng, chàng sĩ quan Ngật cắn chặt môi, mặt ráo hoảnh túm lấy thằng con đích tôn lẳng tõm xuống ao. Kỳ lạ khi được vớt lên Cả Ngưỡng nín bặt không một tiếng khóc. Hai Ngật về đơn vị và ít thời gian sau trở về làng dắt díu cả nhà ra ngoài bãi sông nơi chỉ có cồn gò trơ trụi dựng tạm túp lều trú ngụ. Hai Ngật lên chính quyền xã trình giấy tờ ra quân. Con địa chủ nhưng là cán bộ quân đội có nhiều chiến công nên Hai Ngật nói công bằng cũng được ưu tiên chút đỉnh. Bằng chứng là xã chấp nhận cho gia đình Hai Ngật được trú ngụ khai khẩn đất bãi ngoài cồn gò cách xa làng Kình, nơi xưa nay bỏ hoang hóa chẳng có ma nào đoái hoài đến. Cụ Chánh bà sau đận mất sạch sản nghiệp, phần tiếc của phần thương con thương cháu tay trắng, cụ đổ bệnh và đi theo chồng chỉ mấy tháng sau cải cách.

Sau tang mẹ, Hai Ngật lầm lỳ cặm cụi tinh mơ đến nhá nhem phơi lưng ngoài trời lo cuốc đất khai phá và mở mang trồng trọt. Mấy cô em gái không chịu nổi cảnh nghèo khó vất vả lần lượt người lấy chồng không kén chọn, người bỏ đi xứ người lo chuyện làm ăn. Cứ thế vợ chồng con cái Hai Ngật nặng nhọc nhích đi cùng thời gian ở khu bãi cồn gò. Thời gian càng trôi, Cả Ngưỡng cùng đám em lau nhau lớn dần lên thì khu trại của Hai Ngật càng được khai hoang mở rộng. Ngày đó đất cát chưa là thứ xa xỉ đắt đỏ như bây giờ. Ngay trong làng người ta còn chả hề tranh chấp thậm chí nhường nhau hàng mét dài đất vườn, cho nhau mảnh đất như một món đồ huống hồ đất cồn gò hoang hóa bỏ không. Đến một dạo cũng có vài hộ nhòm ngó đất cát và họ cũng chia nhau cát cứ hoặc được chính quyền cho phép ở những khoảnh xung quanh. Nhưng Hai Ngật có cách riêng của mình, bỏ tiền thôn tính những miếng đất lân cận với một ý nguyện nung nấu phải có nhiều đất để bù lại chục mẫu ruộng đã mất của cụ Chánh Ngung. Cứ thế khu trại của Hai Ngật phát triển bành trướng một vệt bãi sông thành cơ ngơi bề thế như một lãnh thổ riêng biệt tách khỏi làng Kình.

Minh họa: Nguyễn Hữu Khoa.

Từ dạo về ở khu trại, Hai Ngật không một lần bước chân ra ngoài địa giới cồn gò. Cần mua bán gì đã có vợ và đám trẻ để cụ sai bảo. Hai Ngật không tham dự bất cứ một hoạt động nào của làng xã, thậm chí không vào hợp tác xã. Với đám Cả Ngưỡng cụ không cấm chúng thứ gì cho sống bình thường tham gia mọi sinh hoạt trường học, Đoàn, Đội chỉ duy nhất cấm không bao giờ được bước chân vào khu đất nhà cũ, nơi bây giờ là mấy ngôi nhà của những hộ cốt cán được chia năm xưa. Đó cũng chính là lời nguyền của Hai Ngật áp dụng cho tất cả gia đình.

Có một lần, Cả Ngưỡng khi ấy hơn chục tuổi chơi thân với thằng Cường con cụ Bường. Hai đứa đang trèo hái muỗm chín thì cụ Bường đạp xe về. Lúc đó cụ đang là chủ tịch xã. Thằng Cường bị bố cấm trèo cây nay bị bắt quả tang sợ quá đâm hoảng hốt líu ríu chân tay bị trượt ngã xuống đất. Cành ngang thấp thôi nhưng đủ để cu Cường sái cẳng không thể đứng dậy nổi. Thương bạn, Ngưỡng bế sốc Cường chạy vào sân nhà. Chỉ đến sân nó sực nhớ ra lời nguyền của bố bèn quay lui. Nhưng như thế đủ cho Cả Ngưỡng bị bố treo ngược lên xà nhà và tẩn cho vô hồi kỳ trận roi mây. Cụ Hai Ngật đánh con đau đến nỗi mẹ Cả Ngưỡng xót con dù biết tính chồng vẫn liều mạng xông vào giật lấy roi gào lên:

- Con trẻ nó tội tình gì sao ông ác thế. Chuyện đã qua rồi sao không cho nó qua đi luôn. Giỏi đánh chết tôi đây này.

Cả Ngưỡng thấy bố thừ ra rồi giật lấy roi từ tay vợ quăng ra sân đoạn ra đầu hè ngồi, vai rung bần bật. Cụ Hai Ngật khóc. Rất nhiều năm sau Cả Ngưỡng mới hiểu ra những giọt nước mắt của bố khi đó. Khi Cả Ngưỡng học xong cấp 3 đủ tuổi nghĩa vụ, đất nước đang chiến tranh, cụ Hai Ngật bèn bảo con viết đơn tình nguyện. Cả Ngưỡng thích lắm, gì chứ đi bộ đội là ước mơ của tất cả thanh niên thời ấy. Con cháu địa chủ nhưng đã sang đời thứ ba nên việc nhập ngũ của Cả Ngưỡng không khó khăn gì thậm chí còn được biểu dương vì tinh thần yêu nước.

Hết chiến tranh trở về, Cả Ngưỡng theo sắp đặt của bố lấy vợ và ở nhà làm nông trại. Cứ thế khu trại được mở mang dần. Khi xã hội và người dân nhận ra đất mới là thứ tài sản giá trị nhất ở cõi đời này thì khu trại của bố con Cả Ngưỡng đã bạt ngàn bề thế. Là đất khai khẩn lại được phép của chính quyền từ đầu nên mặc nhiên bố con Cả Ngưỡng được sở hữu một gia sản không một người dân làng Kình nào có thể có được dù chỉ là trong mơ.

Một hôm, sau ngày đất nước thống nhất khoảng chục năm cụ Hai Ngật bảo Cả Ngưỡng gọi hết vợ chồng mấy cô em gái cùng con cái về làm mấy mâm cơm cúng tổ tiên. Tối ấy cụ Hai Ngật bảo Cả Ngưỡng:

- Thày đã sáu mươi tuổi, tròn một vòng hoa giáp. Ba chục năm nay từ khi ra đây, thày đã làm cật lực không một ngày ngơi nghỉ để có cơ ngơi này. Tuy không bằng những gì ông nội con có và bị tịch thu nhưng cũng đủ là một sản nghiệp đời người. Từ khi ra đây thày đã nguyền rằng sống đâu chết đấy không bao giờ thày bước chân vào làng Kình nữa. Thày mệt rồi, anh Cả cũng đã lớn giờ thày giao lại cho anh. Những gì anh thấy về thày, anh cũng đủ trí khôn để hiểu. Có những điều qua đi thày không thể quên nổi chỉ có thể cố gắng để vực lại những gì cha ông đã mất. Con hãy nhớ lời thày dạy. Làm gì thì làm, sống sao tùy sống nhưng không bao giờ được lãng quên quá khứ. Và bằng mọi cách phải chăm chỉ lao động để có tiền, không bao giờ được phép nghèo. Nghèo tất sinh hèn, dòng họ Phạm nhà ta xưa nay chưa bao giờ nghèo hèn cả, những gì trải qua ở đời thày, anh hãy tâm niệm để nhìn vào đó mỗi ngày làm gương đặng tiếp tục gây dựng khu trại.

Đoạn cụ Hai Ngật trước mặt đông đủ gia đình công bố bản di chúc giao khu trại cho Cả Ngưỡng làm tài sản hương hỏa truyền lại cho con cháu. Sau hôm đó cụ Hai Ngật tịnh khẩu, ở lỳ trong nhà chỉ uống rượu sáng trưa chiều tối, mắt luôn dõi về nơi gốc muỗm đại thụ ở xóm Bãi ven đê. Chừng nửa năm sau sức cụ kiệt dần. Rượu như thế lại không chịu ăn sức nào cho lại. Tối ấy cụ Hai Ngật cho gọi Cả Ngưỡng. Nửa tháng nay rượu cụ cũng không uống nữa, nằm liệt người như dán vào chiếu duy ánh mắt vẫn sáng rực. Cụ Hai Ngật bảo con trai đỡ cụ ngồi dậy, rót cho chén rượu. Cụ nhấm nháp chút một cho đến khi cạn chén rượu rồi bảo Cả Ngưỡng:

- Thày biết mệnh mình, giờ thì thày có thể quên đi mọi thứ chỉ còn điều này anh Cả khắc cốt ghi tâm cho thày. Lâu nay anh biết nghe lời, thày cảm ơn, nhớ là không bao giờ được đặt chân vào khu nhà cũ, trừ khi…

Tiếng cụ nhỏ đi lịm dần, Cả Ngưỡng ghé tai sát miệng cụ Hai Ngật.

- Trừ khi… anh và con cháu có thể lấy lại được mảnh đất đó. Lấy lại…

Nói đến đó cụ Hai Ngật nấc lên rồi từ từ nhắm mắt đầu ngật sang bên. Cả Ngưỡng đau đớn đỡ cha nằm xuống. Cụ Hai Ngật được chôn ở góc khu trại nơi cụ đã dành riêng một khoảnh quy tập hài cốt cha mẹ về từ trước.

Miên man nghĩ suy Cả Ngưỡng nhớ về chuyện bố bắt ép phải lấy bằng được bà Na làm vợ. Lúc trẻ Cả Ngưỡng mới chỉ manh nha về cái sự ép buộc ấy nhưng càng sống cho đến tận bây giờ vào tuổi thất thập ông mới hiểu thâm ý của cha. Bà Na là họ hàng ruột thịt với cụ Bường. Có một nhân chứng của cái gia đình ăn quả thực ở trong khu trại chứng kiến những gì cha con cụ Hai Ngật trên hành trình phục dựng lại cơ nghiệp như một sự báo thù đời tốt quá còn gì. Hiểu rồi, ngần ấy năm chung sống chưa một lần Cả Ngưỡng thấy cha cạnh khóe hay móc máy về chuyện cũ trước mặt con dâu nhưng nội mỗi cuối chiều cụ nhìn về cây muỗm lúc ăn cơm trong sự lầm lì câm lặng là đủ để vợ ông suy nghĩ thế nào. Đến đoạn sau này nối bước cha, Cả Ngưỡng tuy không cực đoan đến mức như cụ Hai Ngật cấm cung trong khu trại nhưng ý chí làm giàu còn khốc liệt hơn gấp bội. Bà Na không ít lần gạt nước mắt nén lòng khi Cả Ngưỡng dạy thằng Út Ngưởng cùng đám chị nó những những triết lý về tiền bạc và sự kiêng kỵ về khu đất cấm là nhà cũ của cụ Chánh Ngung. Chứng kiến Út Ngưởng lúc nhỏ vặn vẹo bố về sự cấm đoán này và được nghe chồng giải thích về những gì xảy ra thời ấy, bà Na như tan nát cõi lòng. Chuyện của Cả Ngưỡng dạy con cho dù bất cứ ở phương diện gì cuối cùng vẫn gò vào chuyện đất cát nhà cửa như thể họ hàng nhà bà Na cướp đất của địa chủ Chánh Ngung tức gia đình Cả Ngưỡng. Có vẻ như mối hận từ cụ Hai Ngật vẫn chưa là gì so với Cả Ngưỡng khiến cuộc sống của bà Na ngày càng thêm ngột ngạt. Gắng gượng đến khi con cái phương trưởng và khi mẹ chồng mất, bà mới quyết dứt áo ra đi như một sự giải thoát.

Mải đắm trong quá vãng, Cả Ngưỡng không hay biết chị Bỉnh đã đến đằng sau khẽ khàng đưa cánh tay xốc nhẹ người ông.

- Ông vào nhà đi, ngồi mãi ngoài này gió máy không tốt, đừng cậy khỏe chủ quan.

Cả Ngưỡng im lặng vào nhà. Mâm bát đã được chị Bỉnh dọn hết. Vẫn là chị Bỉnh săng sái:

- Em gầy nồi cháo cá rồi, khi nào đói ông ăn. Ông có mỏi người em đấm bóp cho.

Vẫn không trả lời, Cả Ngưỡng mệt mỏi thả người xuống chiếc sập kê gian cạnh chái. Chị Bỉnh trèo lên sập ngồi cạnh Cả Ngưỡng bắt đầu xoa bóp rất thành thục.

Cả Ngưỡng lim dim mắt không phải để tận hưởng mà là tiếp tục mạch hồi ức sau những chấn động khi gặp cụ Bường hồi chiều. Mấy hôm trước nghe ông bạn Cường, con trai cả cụ Bường kể dạo này cụ ốm nằm suốt nhưng sao chiều nay cụ minh mẫn khúc triết thế. Cường là bạn đồng lứa với Cả Ngưỡng thân và hợp nhau đến tận bây giờ. Lúc còn sống cụ Hai Ngật biết mối quan hệ đó nhưng không hề cấm cản. Mà cũng lạ, nhà cụ Bường như có số phận kỳ lạ gắn với nhà Cả Ngưỡng. Cụ Hai Ngật cùng trang với cụ Bường đi lại chơi bời với nhau từ nhỏ. Chỉ khi xảy chuyện cải cách thì cụ Hai Ngật mới giam mình ở khu trại tuyệt giao với tất cả chứ chả riêng cụ Bường. Sau cải cách một thời gian cụ Bường làm chủ tịch xã mấy khóa liền. Sau này đến Cường cũng làm chủ tịch xã và hiện tại thì con của ông đang đương nhiệm cũng chức vụ ấy. Ba đời làm chủ tịch xã ắt mả tổ phải phát về đường hoạn lộ. Từ cụ Bường đến thằng Tường bây giờ đều chơi với cha và con Cả Ngưỡng. Út Ngưởng tuy ở thành phố là đại gia nổi tiếng nhưng mỗi cuối tuần về vẫn giao lưu thân thiết với Tường. Hai đứa cùng đi lính rồi về cùng học đại học kinh tế. Mỗi đứa đi một con đường, thành tựu khác nhau nhưng chúng vẫn là bạn dao chặt không đứt.

Cứ thế Cả Ngưỡng nằm miên mải với hồi ức lô xô để mặc chị Bỉnh tận tụy đấm bóp. Kể cũng lạ cái nhà chị Bỉnh này. Chị có mặt ở khu trại cũng đã kha khá thời gian chỉ sau khi bà Na bỏ đi được hơn năm. Khi vợ chồng thằng Ngưởng đưa chị Bỉnh về, Cả Ngưỡng đã rất ngạc nhiên khi nghe con trai giới thiệu một cách vừa nghiêm túc vừa bông phèng.

- Con tìm cho bố được mama tổng quản rồi. Đây là chị Bỉnh làm ở nhà con lâu nay rất thân với bọn trẻ. Chị Bỉnh được tin tưởng một cách toàn diện vững chắc và sâu sắc nên bố cứ yên tâm giao hết việc nhà cho chị.

Lúc đó Cả Ngưỡng đang buồn chuyện vợ ly hôn bỏ đi nên cũng chỉ thờ ơ gật đầu chấp nhận. Được một thời gian thì Cả Ngưỡng bắt đầu để ý đến chị Bỉnh. Mẽ ngoài chị không xinh lắm được cái ưa nhìn và xốc vác khỏe mạnh. Chị Bỉnh có cách xưng hô khiến Cả Ngưỡng rất thích là gọi ông xưng em ngọt ngào. Xét về tuổi thì chị Bỉnh chỉ nhỉnh hơn thằng Ngưởng đôi tuổi đích thị vào hàng con cháu gọi như thế làm gì chả ngọt. Mỗi cuối tuần về, vợ chồng thằng Ngưởng và đám trẻ quấn quýt thân tình với chị khiến Cả Ngưỡng dần cũng thấy vui. Chị Bỉnh không biết sao rất hiểu tính nết và sở thích Cả Ngưỡng nên nhất nhất chị đáp ứng được mọi yêu cầu sinh hoạt của ông. Thậm chí có khi chưa đợi Cả Ngưỡng yêu cầu chị đã biết phải làm gì. Trong công việc quản gia chị Bỉnh làm tận tình chu đáo không thể chê vào đâu được. Những người làng làm công, cả thằng cháu vợ cũng mến chị và coi chị như bà Na trước kia. Họ chỉ không hiểu bằng cách nào người phụ nữ trẻ này lại có thể thay thế bà Na một cách chóng vánh như thế.

Mọi việc trôi đi hai người cả chị Bỉnh lẫn Cả Ngưỡng mặc nhiên xích lại gần nhau. Đôi khi chị Bỉnh bắt gặp ánh mắt khác lạ đầy lửa ngụt từ Cả Ngưỡng. Cũng chẳng lạ, ông cường tráng bất chấp tuổi tác nên có ham hố nhục dục cũng là chuyện bình thường. Cả Ngưỡng vốn dĩ xưa nay chỉ khát vọng làm ăn tích cóp của cải không chơi bời lăng nhăng quan hệ, ngoài vợ ông chẳng biết đến một ai khác. Bà ra đi khiến ông hẫng hụt, thằng con trai đại gia nghĩ sao lại đưa chị Bỉnh về như này quá bằng trêu ngươi ông. Đến mức có lần khi chỉ hai bố con, Cả Ngưỡng hỏi thẳng Út Ngưởng về chuyện này. Đại gia Ngưởng ta tỉnh queo cười vu vơ, mắt đá lên xà nhà đầy ranh mãnh:

- Thì bố muốn như thế nào cứ sống đúng những gì bố có, bố muốn. Con chỉ biết lo người phục vụ bố, trả lương cho người ta còn thì biết sao được những chuyện như bố hỏi. Hay bố hỏi thẳng chị Bỉnh?

Nghe thằng con nói một cách ẩn ý nhưng có mùi xỏ lá khiến Cả Ngưỡng thẹn đỏ cả mặt. Chuyện gì đến phải đến, không lâu sau đó đã xảy ra cái chuyện khó tránh giữa một đàn ông, một đàn bà trong cùng một nhà. Đêm đó Cả Ngưỡng đi uống rượu với ông Cường về có quá chén nên cập quạng vấp ngưỡng cửa ngã sóng soài. Lúc đấy chị Bỉnh đang mải đóng cửa thấy roành một tiếng chạy vào đã thấy Cả Ngưỡng nằm lịm trên sàn nhà. Sợ quá chị vội xốc ông vào buồng để tránh gió máy rồi lấy dầu cao xoa chống cảm. Được tẹo thì Cả Ngưỡng tỉnh. Thấy hôi hổi thân hình đàn bà bên cạnh, lại đang rượu ngấm lịm thêm vào thời gian xa vợ quá lâu, tích tụ thèm muốn, đòi hỏi thân xác khiến ông mụ mị chẳng kịp nghĩ gì nữa quàng tay ôm riết lấy chị Bỉnh vật xuống giường. Không hề chống cự, chị Bỉnh lặng lẽ để Cả Ngưỡng thỏa mãn cơn khát dục đang dâng đầy trong cơ thể sung mãn như thanh niên kia.

Sáng hôm sau nhớ lại, Cả Ngưỡng ngượng nằm bẹp không dám mò dậy ăn sáng. Nhưng rồi vẫn chính chị Bỉnh hóa giải. Chị vào áp tay lên trán ông một cách âu yếm và reo lên mừng rỡ:

- May quá, em lại tưởng ông sốt. Trán mát lạnh chắc ông mệt vì quá chén thôi. Dậy ăn sáng nào. Mệt thì để em dìu ra.

Rất tự nhiên chị quàng tay đỡ ông dậy. Cả Ngưỡng nhờ thế qua được cảm giác ân hận lầm lỗi với chị Bỉnh. Cứ thế hai người một già một trẻ trong khu trại vẫn có khoảng cách nhưng đêm đến khi có nhu cầu ông Cả Ngưỡng vẫn tìm đến chị Bỉnh một cách tự nhiên và nhận được từ chị ta sự đồng thuận tuyệt đối. Tất nhiên mỗi lần chị Bỉnh về quê có việc ông chu đáo trong khoản quà cáp, tiền bạc. Chỉ có điều ông không hiểu vì sao người phụ nữ kia lại chấp nhận như thế với ông. Cho đến hôm nay trong tâm trạng xáo trộn của những day trở quá vãng qua lời cụ Bường, sự chăm sóc âu yếm tận tụy của chị Bỉnh lại khiến ông có cảm giác nghi ngại, bất an. Đột ngột ông gạt tay chị Bỉnh ra ngồi phắt dậy nhìn thẳng vào người đàn bà mấy năm nay đã trở nên quen thuộc với ông.

- Tôi hỏi này, cô phải nói thật. Tại sao cô lại về khu trại này và ứng xử với tôi như thế? Cô cần gì ở tôi?

Chị Bỉnh vẫn khuôn mặt bình thản, ngồi ngay ngắn, vấn lại tóc:

- Ông đã toẹt ra vậy thì em cũng không có gì để giấu. Em về đây là do cậu Ngưởng sắp đặt…

Sấm sét như nổ trong đầu Cả Ngưỡng. Những tiết lộ của chị Bỉnh khiến ông uất trào. Thì ra là vậy, thảo nào chị ta ngon ngọt, ngoan ngoãn và chấp nhận chiều chuộng Cả Ngưỡng hết mực đều trong toan tính của Út Ngưởng. Sau khi bà Na ly hôn bỏ đi, thấy bố chăm chỉ bơi sông đạp xe, sức khỏe sung mãn nên Ngưởng sợ có chuyện tình cảm nam nữ xảy đến với Cả Ngưỡng. Tính khí Cả Ngưỡng thế nào Ngưởng ta thuộc nằm lòng. Nếu ông để mắt đến ai, điều đó có nghĩa sản nghiệp khu trại sẽ bị đe dọa. Bởi vậy khi biết chị Bỉnh không vướng bận chồng con, Út Ngưởng đã làm công tác tư tưởng dỗ dành chị ta đến giúp việc ở khu trại trong nhiều vai trò trong đó có sự phục vụ thân xác Cả Ngưỡng. Đổi lại Út Ngưởng sẽ chi cho chị ta một khoản tài chính thỏa thuận. Doanh nhân nào không mang dòng máu con buôn chặt chẽ tính toán, Ngưởng thảo cả hợp đồng cho chị Bỉnh yên tâm. Và sự việc xảy ra đúng như toan tính của Út Ngưởng, chí ít cả Ngưỡng cũng an phận trong khu trại trong thời gian có chị Bỉnh.

Cả Ngưỡng gầm gào nguyền rủa thằng con trời đánh. Vì quyền lợi nó sẵn sàng làm cả cái chuyện động trời không thể tưởng tượng kia. Bấm máy gọi cho Út Ngưởng để trút giận nhưng nó không bắt máy. Cả Ngưỡng lại rót rượu uống. Buồn, quá là buồn ở cái ngày chết tiệt quái đản này. Bỗng có điện thoại của Cường báo cụ Bường vừa ra đi. Ngồi ngây ra trước tin dữ bất ngờ, Cả Ngưỡng định thần rồi nốc vã nguyên cốc rượu cập quạng mở cổng ra ngoài.

Nhà cụ Bường đèn đuốc sáng choang, người vào ra tấp nập, ồn ã. Ngoài sân thằng Tường chủ tịch xã đang chỉ huy đám thanh niên căng rạp. Cả Ngưỡng đứng nép vào gốc muỗm nhìn vào. Uống nhiều lại chưa ăn miếng nào nên bụng réo quặn nhưng trí não Cả Ngưỡng vẫn tỉnh queo. Thì ra là vậy có điều gì đó như tâm linh ứng báo khiến cụ Bường đang ốm liệt vẫn tỉnh táo đi ra gốc muỗm gặp Cả Ngưỡng lúc ban chiều. Cụ Bường chỉ nói ít lời nhưng như dao đâm vào tâm can Cả Ngưỡng.

Những lời của cụ Bường liên quan đến dự án của Út Ngưởng. Một dự án lớn đầu tư khu đô thị bề thế trên đất làng Kình mà Tập đoàn của Út Ngưởng làm chủ tịch đang triển khai. Sẽ chẳng có gì đáng nói vì dự án khu đô thị chỉ làm tốt cho chính người dân làng Kình và địa phương. Nhưng oái ăm ở chỗ trong thiết kế sẽ phải giải phóng mặt bằng khu trại của Cả Ngưỡng và một phần xóm Bãi trong đó có khu nhà cũ của cụ Chánh Ngung mà gia đình cụ Bường đang ở. Khu trại của Cả Ngưỡng không nói vì nó nằm ở trung tâm khu đô thị nhưng phần xóm Bãi phải giải tỏa thì không ít người làng Kình thắc mắc. Đất đai thiếu gì sao phải giải tỏa đúng khu dân cư đang ổn định đó. Nhưng rồi người dân cũng xuôi tai chấp nhận khi được biết những điều kiện đền bù di dân mang cho họ phần lợi hơn là thiệt thòi. Chỉ có điều người dân làng Kình không thể biết có điều này là do chính ý của Cả Ngưỡng.

Khi Út Ngưởng có ý định đầu tư về quê hương, cậu bàn với bố về số phận khu trại. Sau nhiều suy nghĩ Cả Ngưỡng hiểu rằng đây chính là cơ hội để thực hiện trăng trối của cụ Hai Ngật lấy lại mảnh đất hương hỏa. Cả Ngưỡng ra điều kiện cho Út Ngưởng nếu làm được thế ông mới chấp nhận cho giải tỏa khu trại. Ý chí của Cả Ngưỡng khiến con trai khó xử. Cậu không thể nghĩ bố mình lại dai dẳng với câu chuyện quá khứ đến thế. Hết tranh luận căng thẳng, đến ngon ngọt thuyết phục Cả Ngưỡng vẫn không đổi ý khiến một doanh nhân luôn mang bài toán kinh tế lên hàng đầu phải chịu thua. Út Ngưởng chấp nhận yêu cầu của bố theo đúng bản chất lợi nhuận kinh doanh bằng một yêu cầu khác là Cả Ngưỡng cũng phải chấp nhận chịu thiệt thòi khi khu trại bị giải tỏa bằng một mức giá thấp để bù đắp lại cho Út Ngưởng và tập đoàn phải chịu đội chi phí lên rất nhiều khi di dân một phần xóm Bãi.

Chiều nay khi Cả Ngưỡng đang ở gốc muỗm thì cụ Bường từ trong nhà chống gậy lần ra. Cụ đang ốm liệt nhưng không hiểu sao lúc đó lại tỉnh táo và khỏe khoắn khác thường. Cụ vào thẳng chuyện luôn:

- Anh Cả Ngưỡng đấy à, tôi muốn nói với anh mấy lời này, mấy lời thôi. Làng Kình không ai biết nhưng tôi biết mưu đồ của ông cháu, bố con nhà anh. Các người rắp tâm lấy lại mảnh đất của cụ Chánh Ngung bằng cách đè tiền thế này hèn hạ lắm. Cả Ngưỡng, anh nghe đây, tôi đã rất ân hận và suốt cả cuộc đời tôi luôn day dứt về những gì đã xảy ra. Mỗi ngày tôi ở trên miếng đất hương hỏa nhà anh là một ngày tôi cầu mong ông cháu, bố con anh nhanh chóng gượng lại. Nhà tôi cả mấy đời làm chủ tịch xã đều vun vén ủng hộ cho gia đình anh bất chấp nguyên tắc cũng vì chuyện đó. Tôi cố sống đến ngày hôm nay, bỏ qua những mất mát tình cảm của tôi với bố anh, tôi đã hy vọng những gì xưa cũ của một thời sẽ trôi đi nhưng không, không phải thế. Ông nội anh là địa chủ nhưng cụ Chánh Ngung luôn khoan dung nhân hậu với người làng Kình còn ông cháu, bố con anh thì khác, vẫn là dòng máu địa chủ đó thôi nhưng địa chủ đời mới này ác độc lắm. Nói để anh biết, tôi đã cất bỏ được hết những day dứt ân hận cũ và chừng nào tôi còn sống thì các người đừng hòng…

Nói đến đấy cụ Bưởng thở hổn hển ôm ngực loạng choạng. Ông Cường nãy giờ đứng ở sân chứng kiến cuộc gặp vội vã lao ra đỡ cụ đưa vào nhà.

Chuyện ban chiều là thế nhưng ai ngờ lại đến cơ sự như này, Cả Ngưỡng nép sát hơn vào gốc muỗm khi chiếc ô tô từ mặt đê rẽ xuống chở theo chiếc quan tài đỏ chót. Người Cả Ngưỡng run lên bần bật và từ mặt ông lặng lẽ chảy xuống hai dòng nước mắt. Chết là hết tất cả. Chính lúc đó Cả Ngưỡng đột ngột quyết định. Từ gốc muỗm ông đi thẳng vào nhà cụ Bường. Lúc đó Cả Ngưỡng thoáng nghĩ đến giây phút hấp hối của cha với lời thều thào di nguyện nhưng ông đã quyết định. Xin thày tha lỗi cho con, mọi sự kết thúc rồi thày ạ. Con sẽ phải làm những gì cần phải làm.

Người nhà cụ Bường đang có mặt khững lại hết lượt đứng nhìn Cả Ngưỡng. Họ kinh ngạc chứng kiến lần đầu tiên Cả Ngưỡng bước chân về khu nhà cũ. Không nhìn ai, Cả Ngưỡng vào trong nhà tiến đến sát bên giường đang đặt thi hài cụ Bường. Cụ nằm như ngủ. Cả Ngưỡng quỳ xuống, hai bàn tay đặt lên tay cụ Bường đã được con cháu cố định xếp trên bụng. Ông Cường lao đến rồi cũng quỳ bên cạnh Cả Ngưỡng quàng vai bạn khóc nghẹn ngào.

Minh họa: Nguyễn Hữu Khoa.

Đoàn gia tộc họ Phạm ở làng Kình đến viếng đám hiếu cụ Bường do Cả Ngưỡng dẫn đầu. Út Ngưởng cùng rất đông nhân viên tập đoàn đi cùng. Lần đầu tiên Út Ngưởng giống như Cả Ngưỡng đêm qua mới đặt chân vào khu đất cũ của cụ Chánh Ngung. Khi thắp hương xong Út Ngưởng kéo Tường chủ tịch xã ra góc vườn thì thầm gì đó. Cả hai mặt đều rạng rỡ.

Sáng nay trước khi dự tang, Cả Ngưỡng ngồi bàn việc với con trai. Toàn những việc hệ trọng. Út Ngưởng thanh lý hợp đồng để chị Bỉnh rời khu trại về quê. Dự án khu đô thị sẽ được nắn lại thiết kế để nguyên trạng xóm Bãi và dĩ nhiên nhà của cụ Bường không phải di dời. Cả Ngưỡng nói với con:

- Mọi chuyện kết thúc ở đây con ạ. Ta khép lại những trang đời cũ. Ông nội con chắc cũng vui lòng thôi.

Tất nhiên Út Ngưởng quá vui nhưng cậu ta vẫn làu bàu chán chê mê mỏi trách bố trẻ con coi dự án như làm nhà vườn chỉ tổ để thiên hạ chê cười. Út Ngưởng cũng không quên về những điều khoản lấy đất khu trại cho dự án hai bên cần phải thỏa thuận lại. Cả Ngưỡng nói giờ chẳng cần đất, khu trại trước sau cũng của Út Ngưởng cứ vậy mà tùy nghi, ông chỉ yêu cầu khi dự án khu đô thị xong, cấp cho ông một căn hộ vừa phải ở tầng cao nhất nhìn ra sông Hồng. Mặc cho Ngưởng há hốc mồm vì ngạc nhiên, Cả Ngưỡng khẳng định chắc khừ:

- Để tao đón mẹ mày về. Chỉ tao biết lý do mẹ mày bỏ đi và tao biết chắc chắn mẹ mày vì sao lại trở về.

Phạm Ngọc Tiến
Tin khác
Phi công Hồ Duy Hùng trong miền hồi ức ‘gãy cánh điệp viên’
Phi công Hồ Duy Hùng trong miền hồi ức ‘gãy cánh điệp viên’

Phi công Hồ Duy Hùng từng gây chấn động dư luận quốc tế với vụ cướp trực thăng của Không quân Việt Nam Cộng hòa, vừa xuất bản tự truyện ‘Gãy cánh điệp viên’.

Trí tuệ nhân tạo sẽ mở ra mô hình giáo dục siêu việt?
Trí tuệ nhân tạo sẽ mở ra mô hình giáo dục siêu việt?

Trí tuệ nhân tạo đang làm cả thế giới phải tư duy lại tương lai, và không phải ngẫu nhiên khi có người đã hình dung mô hình trường lớp với những giáo sư robot.

Biểu tượng thờ cúng của người Việt qua góc nhìn học giả Pháp
Biểu tượng thờ cúng của người Việt qua góc nhìn học giả Pháp

Biểu tượng thờ cúng của người Việt rất đa dạng và ẩn chứa nhiều ý nghĩa tâm linh, được học giả Pháp Gustave Dumoutier biên soạn thành cuốn sách công phu.

Thành hoàng Đông La qua diễn ca bái tụng của hậu sinh
Thành hoàng Đông La qua diễn ca bái tụng của hậu sinh

Thành hoàng làng Đông La ở Thanh Miện, Hải Dương trở thành biểu tượng văn hóa và lịch sử trong diễn ca ‘Ngọc phả thành hoàng’ của nhà thơ Nguyễn Ngọc Thu.

Lê Ký Thương khép lại cuộc đời tài hoa
Lê Ký Thương khép lại cuộc đời tài hoa

Lê Ký Thương, họa sĩ kiêm thi sĩ nổi tiếng, sau một thời gian đau ốm đã trút hơi thở cuối cùng lúc 9h50’ ngày 14/2 tại TP.HCM, hưởng thọ 80 tuổi.

Phan Thị Vàng Anh kể chuyện cuộc đời lắm nỗi trớ trêu
Phan Thị Vàng Anh kể chuyện cuộc đời lắm nỗi trớ trêu

Phan Thị Vàng Anh sau nhiều năm vắng bóng trên văn đàn, đã tái ngộ công chúng bằng tập truyện ngắn có cái tên lắt léo ‘Chuyện nhà Tí (và chuyện nhiều nhà khác)’.

Nhà thơ Phạm Trung Tín góp bao trải nghiệm thành câu vô thường
Nhà thơ Phạm Trung Tín góp bao trải nghiệm thành câu vô thường

Nhà thơ Phạm Trung Tín đánh dấu hành trình bước vào tuổi thất thập cổ lai hy bằng cuốn sách 'Con chữ tấm lòng' ghi lại những kỷ niệm đường văn và bạn văn.

Ký ức biệt động Sài Gòn trong câu chuyện kết nối thế hệ
Ký ức biệt động Sài Gòn trong câu chuyện kết nối thế hệ

Ký ức biệt động Sài Gòn từng được đưa lên màn ảnh, bây giờ lại tái hiện trong truyện dài ‘Nụ hôn dưới vòm cây’ của tác giả Nguyễn Khắc Cường.

Châu Thành không chỉ một địa danh phổ biến miền Tây Nam bộ
Châu Thành không chỉ một địa danh phổ biến miền Tây Nam bộ

Châu Thành được đặt tên cho vùng đất nằm cạnh tỉnh lỵ, áp dụng hầu hết miền Tây Nam bộ, như một thói quen ngày xưa, như một kỷ niệm hôm nay.

Hồ Chí Minh và vẻ đẹp vĩ nhân luôn tin ở con người
Hồ Chí Minh và vẻ đẹp vĩ nhân luôn tin ở con người

‘Hồ Chí Minh - Người tin ở con người’ là tuyển thơ của tác giả Hải Như, được ấn hành nhân kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tương truyền dấu chữ người thơ xưa & bước chân Đầu Đà người tu nay
Tương truyền dấu chữ người thơ xưa & bước chân Đầu Đà người tu nay

Thơ Hồ Xuân Hương có sức ảnh hưởng to lớn đến mức ngoài phần thơ 'chính hiệu', còn trên trăm bài phổ biến trong dân gian cũng được 'tương truyền' là do bà sáng tác.

‘Đóa hoa sương núi’ ẩn hiện ước mơ những đứa trẻ Raglai
‘Đóa hoa sương núi’ ẩn hiện ước mơ những đứa trẻ Raglai

‘Đóa hoa sương núi’ của tác giả Tâm An được ra mắt sáng mồng ba Tết Ất Tỵ tại lễ hội Đường sách TP.HCM, chia sẻ cuộc sống những đứa trẻ dân tộc Raglai.