Bao nhiêu những bần thần khi chợt nghĩ đến một quá vãng ấm áp.
Thời còn nhung nhăng loạng quạng những buổi ghé quê. Với nhà thơ Đỗ Xuân Thanh (cùng học Khoa văn khóa 17). Xa hơn có nhà thơ Lã Hoan (Hội văn nghệ Thanh Hóa), nhà thơ Trịnh Thanh Sơn ở Hà Nội. Ba lão có quê chung Nga Sơn.
Thôi thì chả sót những dư địa chí, nhân vật chí nào của đất Nga Sơn mà các lão không dắt đến.
Cái vùng đất Nga Sơn lày thụt giăng giăng năn lác chiếu cói này khó mà gọi là địa linh được (họa may có cửa Thần Phù và hang Từ Thức chăng?). Thế mà từng ló dạng mấy vị cũng hơi bị oách xà lách. Có lẽ một dịp thích hợp sẽ tường lại cuộc điền dã của mấy nhà thơ Nga Sơn cùng ghé quê kiểng, nhà cửa của những vị này...
Và cuối cuộc nhung nhăng lang thang, thể nào cũng ghé nhà thơ Hữu Loan ở Nga Lĩnh.
…Lùm tre gai khô khỏng gọi là rào rấp đầu ngõ rẽ vào nhà. Ngó xơ xác mong manh vậy nhưng là cột mốc chủ quyền phân chia một lãnh địa bất khả xâm phạm. Nhớ hồi mới ghé, anh Đỗ Xuân Thanh thầm thì rằng cụ Hữu Loan khó tính lắm. Người lạ ông không tiếp, không cho vào nhà chỉ đứng xa mà nhấm nhẳng gióng một. Ấy là phản xạ của thời gian dài, ông bị theo dõi canh chừng, hạch sách. Có lẽ đám anh Thanh, Sơn, Hoan người Nga Sơn từng là chỗ quen biết lui tới nhiều lần thì cả bọn mới có động thái kéo quẹt lùm tre gai mà xăng xái tiến vào.
Cái cười lặng lẽ thay cho mọi lời. Chủ nhân ẩy ra cái siêu đất nước vối.
Chiếc chõng tre vẫn chỏng chơ bên mấy ông đầu rau bụi bậm. Bà Nhu vợ ông tầm này chắc đang mải mốt ngoài chợ với mẹt bánh cuốn ngày nào cũng ế đến chiều. Dạo này nghe ông thở dài, yếu rồi không vào Vân Hoàn đánh đá thồ đá được nữa. Cái ăn cả nhà trông cả vào mẹt bánh cuốn.
Trịnh Thanh Sơn nhanh nhảu chuyền ra mấy cái chén hoa hồng sứt mẻ chai “ sáu lăm” rượu trắng thủ ở nhà. Lão móc thêm bên túi quần mấy quả ổi xanh. Rồi lão nhảo sang bếp làm vốc muối trắng. Tự nhiên cứ như người nhà nhoáng cái đã biện xong mâm rượu còm. Hóa ra thi sĩ Hữu Loan chẳng phải hay rượu lắm. Ông chỉ nhấp nhấp gọi là.
Tôi xúi Trịnh Thanh Sơn đọc lại bài “Vân Hoàn mây trắng” viết về Hữu Loan in trên Báo Văn Nghệ. Đến câu “Mật ong nhà tan trong bát rượu quê/ Ông lại hát những vui buồn đích thực” thì bất ngờ Hữu Loan phá lên cười khùng khục.
Mãi sau, tôi loáng thoáng cái cười ấy!
Cười giễu chú em Trịnh Thanh Sơn thi vị hóa? Thì lần đã xa ấy, ông có chắt cút mật ong hiếm hoi lấy từ đõ ong nuôi hòa với rượu trắng Nga Sơn, cả hai cùng uống. Rượu mật ong? Cũng chả đến nỗi nào. Nhưng hiếm hoi.
Còn vui buồn đích thực? Đích thực như một ngày của năm 1956, trước tác văn chương nào tày tặn kỳ vĩ gì. Nhưng “Màu tím hoa sim” đã bầu nên một danh sĩ Hữu Loan. “Tôi là cây gỗ vuông/ chành chạnh/ suốt đời đã làm/ thất bại mọi âm mưu/ đẽo tròn” (thơ Hữu Loan). Thiên hạ trọng cụ, nể cụ cũng vì thang trật tiết tháo của cụ đã là mức tót vời vào cái thời nhiễu nhương tao loạn ấy.
Dính gì nhiều lắm đến Nhân văn đâu nhưng có mấy anh viết lách trong một cuộc họp đã buột ra sự dè bỉu rằng Màu tím hoa sim... rặt một thứ ủy mị tiểu tư sản yếu đuối... Rứa là Cựu Vệ Quốc đoàn cự phách Hữu Loan, nhà thơ Hữu Loan đùng đùng rời tờ Văn Nghệ vuột hẳn về xóm núi Vân Hoàn Nga Sơn xứ Thanh làm nghề thồ đá kiếm sống! Không làm rộn như Nguyên Hồng, cũng thời điểm ấy lớn tiếng “Ông đéo chơi với chúng mày nữa!”, rồi cun cút về Nhã Nam cùng một lũ thê nhi.
Tác giả “Sóng Gầm” trong cơn buồn ấy còn nghĩ ra việc thủ theo mớ tem phiếu! Nhưng Hữu Loan vuột về tay không.
Tôi kính cẩn bóp nhẹ bờ vai ông lão. Chút răn rắn của mớ cơ như tố cáo một thời làm lụng thổ mộc cật lực. Hơn 20 năm ròng kiếm sống bằng đánh đá thồ đá. Đã thế lại thường xuyên bị hạch hỏi, theo dõi. Có cái xe cút kít bánh gỗ chúng cũng phá mất. Lại phải nai lưng ra mà gánh. Từ nhà vào Vân Hoàn hơn mươi cây số đường khúc khuỷu gập gềnh. Mỗi chuyến đá xe cút kít vừa đủ tiền đong ba bơ gạo (ba bơ rưỡi mới được một cân).
Chiều ấy, chắc trong không khí thân gần do mấy thằng em (ba trợn - ông gọi yêu thế?) tạo ra chứ chả phải chút rượu trắng, ông vuột ra một chuyện mà ngay cả Trịnh Thanh Sơn lần đầu mới được nghe.
Chuyện ông và cả nhà cứ mươi bữa lại được tẩm bổ! Đá núi ông đánh, ông chẻ ra có phải thồ hết về một lúc. Đành phải xếp đống lại. Cái đống đá được xếp gọn như cột mốc chủ quyền. Nga Lĩnh, Vân Hoàn có mỗi Hữu Loan làm nghề đá đâu? Bẵng đi mươi hôm chưa kịp chuyển hết. Dỡ khối đá đó ra, bất đồ phát lộ một bầy rắn loằng nhoằng bùng nhùng! Hữu Loan bàng hoàng xây xẩm chẳng phải vì sợ mà một thứ hứng khởi bỗng òa, choán lấy ông! Hữu Loan thoáng nhận ra thứ rắn ráo béo vàng rất lành vốn quen thuộc với người dân xứ này!
Chiều muộn, căn nhà lụp xụp cuối xóm của vợ chồng ông lão đánh đá ấy một thứ mùi ngào ngạt xen lẫn với khét lẹt dậy lên.
Rồi ông nhanh chóng phát hiện tại sao thứ lộc trời ấy lại không khu trú xuất hiện ở đống đá bên cạnh? Thì ra khi xếp đá, theo thói quen, ông xếp nó lần lượt thứ tự và khít rịt! Lũ rắn ráo còn tìm đâu thấy đường mà ẩn với làm ổ?
Ông bỏ công sức tạo thêm những đống đá mới. Cũng kiểu xếp bày sao cho tự nhiên sinh động. Có thêm ngóc ngách đường dẫn ngoắt nghéo khuất nẻo như thứ ổ ấm bắt mắt mời gọi dành riêng cho lũ rắn ráo vậy!
Bằng cái cách đơn giản ấy mà mùa mưa cũng như mùa lạnh, thi sĩ Hữu Loan cứ ít bữa nhà lại có món thịt rắn!
Cái cười thành tiếng hiếm hoi của chủ nhân hôm chuyện ấy rằng có lẽ là niềm vui đích thực mà chú Sơn tả trong thơ đó!
Nhớ thêm năm 1988, lần ấy Hữu Loan trở lại Hà Nội sau bao năm biền biệt. Đưa cụ Hữu Loan cùng đám bạn bám theo về khu tập thể, chợt tôi lóe ra một quyết định. Có thể do hồi ức xui khiến? Thể nào mà Hữu Loan lại chả nhớ? Còn thích hay không chả biết? Hồi ấy đã có một Lệ Mật tuy còn lác đác nhưng là một tụ điểm đặc sản rắn. Hiềm cái, túi mỏng dẹt. Nhưng tôi đã có cách, đúng hơn là có kinh nghiệm.
Để cụ Hữu Loan ngồi với đám bạn bè cùng mớ lạc rang, chai rượu thuốc, tôi tức tốc nhảo ra chợ Hàng Bè. Chiều nào chỗ góc khuất của chợ đều có bốn, năm bà đánh dậm chiếm chỗ. Chả biết các bà quê đâu nhưng nhiều năm nay đã là cư dân Hồ Tây, cả Hồ Gươm nữa. Lộ trình đánh dậm cuối ngày thường là ghé ngay lên chợ bày bán táo tươi những mớ cua, những mớ rô riếc nhõn… con lớn thứ bé lộn lạo. Nhưng thể nào cũng có vài cái lá sen trên đó nuột nà mấy khoanh. Cái gì vậy? Thưa rằng, rắn. Thứ rắn nước. Trong tôi, gọi là rắn mẩn. Giống này chỉ nhỉnh hơn ngón tay cái đã được mấy bà đánh dậm lột da chặt đầu đuôi. Rất ít người dám ăn, dám mua nên thường tôi quơ cả mấy mớ lá sen mỗi khi ghé chợ.
Thứ rắn đã lột da bỏ ruột ấy phải chịu khó băm nhỏ. Cho thật nhiều hành khô và rau thơm nhào nhuyễn. Vo viên lại. Rán! Một mùi thơm điếc mũi thời bao cấp ấy tố cáo khắp khu tập thể Hàng Trống rằng nhà Xuân Ba thi thoảng lại ăn sang, chả rán thơm lừng!
…Bữa rượu tháo vát ấy được dọn ra. Nhà thơ Hữu Loan ngó qua mớ viên đen đen gọi là chả trông rất khả nghi ấy cứ cười cười chả nói gì! Có tí rượu thuốc, tôi hào hứng với cả mâm một đoạn ngẫu hứng như này.
Thưa thi sĩ Hữu Loan, cùng các tửu hữu. Bữa rượu mừng thi sĩ tác giả "Màu tím hoa sim" hôm nay có món chả rắn. Thứ thức dân dã từng góp phần cung cấp dinh dưỡng cho cụ và người thân trong những năm tháng khốn khó nhất!
Đang thao thao, một thằng chen ngang “chả rắn đặc sản là nhất rồi thì khó khăn nỗi gì?”. Tôi quát “Im mồm”, rồi rành rẽ lại cái đoạn thi sĩ Hữu Loan từng nghĩ ra cách bẫy rắn ở núi Vân Hoàn ra sao.
Cứ thế bữa nhậu diễn ra khá là hào hứng. Để ý, thi sĩ Hữu Loan chỉ nhấm nháp chút chả gọi là. Và cả rượu cũng vậy. Rồi ông cười mà như mếu rằng, thời ấy mần chi có mỡ như rán như ri. Bà nhà tôi lấy lá chuối lót dưới cái chảo…
Chả biết có phải ngại chỗ khu tập thể Hàng Trống chật chội hay sao mà Hữu Loan bảo có chỗ ông bạn rồi nên dứt khoát cáo từ. Bạn nào nhỉ? Gạn mãi hóa ra cũng chả xa. Khu tập thể cũng là nơi Nhà xuất bản Thanh Niên làm việc. Nhà thư pháp Tú Sót, anh Chu Thành cũng là chỗ quen biết.
Hình như lần trở lại Hà Nội từ năm 1956 ấy, Hữu Loan chỉ ở một nơi. Chỗ nhà mà như cái hầm của Chu Thành ở 62 Bà Triệu ấy ít ngày rồi mới mần một chuyến xuôi Nam.
Đất bằng Nga Sơn đầu huyện nhô nhỉnh một cụm Vân Hoàn của Nga Lĩnh. Mãi đến bữa đưa tang Hữu Loan, tôi mới có dịp trèo lên đỉnh Vân Hoàn dõi mắt xuống sông Lèn, sông Bạch dưới kia cố tưởng tượng ra cái linh mạch hình sông thế núi mà có lần cụ Hữu Loan nắc nỏm. Và chiều tang tiết tận xuân sơ hạ ấy, trên sườn non Vân Hoàn, tôi thoáng thấy những đống đá thâm thấp mà dân Hà Lĩnh vừa khai thác. Thứ đá non, đá già tím lịm chắc khừ kia như hậu duệ như thứ tiêu bản sống lưu lại một thời thương khó của Hữu Loan. Bên những đống đá là lấp loáng dàn kèn đang cử những bản hành khúc tiễn biệt. Dàn nhạc kèn như một nghĩa cử ấm áp. Thời gian sau cách mạng tháng Tám, Hữu Loan làm Phó Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa huyện Nga Sơn, sau lại làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban lâm thời tỉnh Thanh Hóa. Thời gian ấy Hữu Loan đã có những việc làm mà bà con giáo dân rất lấy làm cảm kích. Nghe tin nhà thơ tạ thế, cả hai họ Đạo của giáo xứ Nga Sơn đều cử ban nhạc của nhà thờ đến viếng.
Tưởng ban kèn chỉ cử nhạc nơi truy điệu, nhưng mấy chục những Ô boa, Clarinet đã đưa Hữu Loan tận nơi huyệt mộ. Những giai điệu kèn với chút trầm hùng sâu lắng khác với những nỉ non lâm khốc quen tai của kèn đám ma khiến cuộc tang của thi sĩ màu tím hoa sim bớt phần bi lụy! Lại ấn tượng thêm bên mộ Hữu Loan giăng bạt ngàn sắc tím sim dại đang mùa hoa, thứ hoa nguyên thủy cái thời người vợ cả Lê Đỗ Thị Ninh!
Tôi thảng thốt nhớ cái lần khiến Hữu Loan mất lòng. Chắc là cả bực nữa. Lần ấy hăm hở dẫn thằng em quen thân phụ trách đám truyền hình đổ bộ vào Nga Lĩnh. Đã vận động được Hữu Loan cùng cô cháu ngoại, hai ông cháu cùng song đọc bài thơ dài “Hoa Lúa”. Quay kiếc thế nào, băng hình trắng phớ!
Quyết tâm chuộc lỗi, lần sau lại đổ bộ tiếp. Nhưng thi sĩ chủ nhân sau khi hỏi cơn cớ, với cái cười tinh quái cố hữu đã phẩy tay “bai bai”.
Rồi lần cuối, quá nể ông bạn Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu cứ nằng nặc bắt tôi dẫn vô thăm thi sĩ Hữu Loan. Tôi chối phắt vì biết nhà thơ Hữu Loan dạo này yếu tợn. Nhưng quan trọng là lùm rong tre gai chắn lối ngõ của nhà Hữu Loan chưa bao giờ kéo ra để cho một ông cán bộ cỡ hàng xã, hàng huyện đặt chân vào chứ đừng nói cỡ thượng thư như lão Triệu.
Nhưng cái sự nằng nặc mấy lần cứ sát sạt. Mà cái lão hàm thượng thư này có vẻ quý vẻ nể trọng thực sự? Chứng kiến một lần hứng khởi, lão đọc vanh vách bài thơ màu tím hoa sim…
Tôi thỏa thuận với lão là cứ đổ bộ.
Ngày vô Nga Lĩnh, tôi khiếp đảm ngó 7 cái xe ăn theo Bộ trưởng Triệu! Trách lão. Nhưng lão cười hề hề rằng họ cũng yêu quý Hữu Loan như mình!
Đúng như kịch bản. Xe cứ đậu ngoài ngõ. Chỉ một mình Bộ trưởng với mấy người, tất nhiên có tôi vào.
Thi sĩ Hữu Loan đang nằm trên giường ở buồng trong.
Bộ trưởng Triệu đứng chắp tay. Dõng dạc.
Thưa thi sĩ Hữu Loan. Cháu tên là… Chức vụ là… Hôm nay nghe bác mệt, cháu và anh em ghé thăm bác và bác gái. Thưa bác, cháu là lính chiến Quảng Trị, trong hành trang người lính vào chiến trường không ở trong túi áo ngực thì ở trong tim mỗi người lính đều có bài thơ "Màu tím hoa sim"…!
Giật cả mình! Lão này hơi bị hoạt ngôn.
Bất đồ nhà thơ Hữu Loan cất tiếng. Giọng yếu nhưng nghe rõ mồn một.
“ Anh đọc bài thơ đi…”.
Đến đoạn “Khi gió sớm thu về gờn gợn nước sông”, Hữu Loan giơ tay rành rẽ “Rờn rợn chứ không phải gờn gợn nhé”.
Kết thúc tiết mục đọc thơ, cụ vẫy Quốc Triệu ngồi bên chỗ nằm và trò chuyện.
Buổi thăm thành công mỹ mãn.
Cũng may anh em thày trò nhà Quốc Triệu khá là chu tất. Có quà cho cả hai ông bà. Thêm cái xe lăn cho bà lão tháng trước bị ngã gãy chân.
Ít tháng sau nhà thơ Hữu Loan mất.