“Chuyện làng Buông” dày hơn 300 trang, khổ 16x24 cm, tính chi li khoảng 15 vạn chữ. Nếu 15 vạn chữ quy đổi thành 15 vạn viên gạch hay 15 vạn gốc rạ, thì để hiểu làng Buông cũng đơn giản. Thế nhưng, 15 vạn chữ không nói chuyện viên gạch hay chuyện gốc rạ, mà nói chuyện con người, chuyện cuộc đời, nên làng Buông thực sự phức tạp để chia sẻ, để cảm thông.
Xưa nay, làng vốn lắm chuyện, vì là nơi nguồn cội sinh nở, là nơi ám ảnh nhớ thương, là nơi dặn vặt mong ngóng, là nơi lưu luyến trở về. Tác giả Lưu Trọng Văn không xác lập làng Buông thuộc khu vực nào, đó là dụng ý, vì làng nào cũng là làng Việt với ngổn ngang văn hóa Việt, dù làng miền Bắc hay làng miền Nam. Tinh thần ấy kế thừa tiền nhân, như cách Nguyễn Quang Diêu (1880-1936) ở Đồng Tháp đầu thế kỷ 20 viết trường ca song thất lục bát “Chiêu hồn dân ruộng”, như cách Kim Lân (1920-2007) ở Bắc Ninh giữa thế kỷ 20 viết truyện ngắn “Làng”.
Cái tên “Chuyện làng Buông” đáng quan tâm ở chữ “Buông”, có vẻ hợp mốt thời thượng “buông bỏ” của trào lưu “chữa lành” hiện nay. Trong tiểu thuyết “Chuyện làng Buông” được phơi bày qua nỗi lòng của nhân vật Vượt: “Nhiều đêm xa làng cơ cực kiếm miếng ăn, bươn chải với nhiều loại người, cô từng ước mơ là nếu mình có phép màu, mình sẽ xóa tội hết cho tất cả mọi người. Xóa bỏ hết hận thù. Tất cả cùng bắt đầu lại. Thương yêu nhau. Buông, buông hết, không phải chỉ để mình thanh thản mà để được thương yêu nhau. Buông! Buông! Buông! Thương! Thương! Thương!”.
Tác giả Lưu Trọng Văn là một trường hợp tương đối độc đáo trong giới cầm bút. Là con trai của nhà thơ Lưu Trọng Lư và nghệ sĩ đàn tranh Tôn Lệ Minh, nên Lưu Trọng Văn có sẵn gien nghệ thuật. Mất 6 năm từ 1968 đến 1974 cặm cụi bậc đại học chuyên ngành xây dựng ở Liên Xô, nhưng Lưu Trọng Văn lại quay về nước để làm phóng viên Đài phát thanh Giải Phóng và gắn bó với nghiệp viết lách.
Sau tập bút ký “Campuchia những bước chân thầm lặng” in năm 1979, Lưu Trọng Văn tung hoành giữa kịch và thơ. Kịch Lưu Trọng Văn có ưu điểm vượt trội ở lời thoại, qua các vở “Ngoài kia là biển”, “Chiến sĩ trẻ”, “Người biết sợ”… Còn thơ Lưu Trọng Văn có một tập ra mắt năm 1997, với lối thơ nảy chữ lắt léo và hồn nhiên như đồng dao.
Không được đào tạo báo chí, nhưng Lưu Trọng Văn tự trau dồi kỹ năng để viết báo và làm báo rất cừ khôi. Vài năm gần đây, Lưu Trọng Văn nhảy lên mạng xã hội, lấy thân phận “gã” để bày tỏ thái độ yêu ghét tung tẩy. Kiểu tự xưng “gã” của Lưu Trọng Văn cũng quyến rũ khối người khác, kiến tạo xu hướng và dẫn dắt xu hướng trên Facebook.
Tác giả Lưu Trọng Văn mang đại từ nhân xưng “gã” vào tiểu thuyết “Chuyện làng Buông” để kể chuyện ở ngôi thứ nhất, chứ không dùng “tôi”, “hắn” hay “y”. (Năm 1989, Lưu Trọng Văn từng xuất bản tiểu thuyết “Nửa vầng ngực cháy”, vai “gã” chưa đắc dụng). Gã tên Cát, sống ở làng Buông, vui buồn với làng Buông, đi lính rồi thành nhà báo, cũng yêu đương run rẩy, cũng bị giam cầm oan uổng vì bắt nhầm.
“Chuyện làng Buông” chia làm hai phần, đánh dấu hai chặng đời của Cát. Một chặng đời từ 13 tuổi đến 17 tuổi, ngụp lặn giữa làng Buông. Một chặng đời ở tuổi 23, trở lại làng Buông với nhiều thay đổi. Tác giả Lưu Trọng Văn dùng câu ngắn để viết tiểu thuyết, nhịp điệu nhanh, văn phong hoạt. “Chuyện làng Buông” chia làm nhiều chương ngắn, dễ đọc và lôi cuốn. Thậm chí, có chương vỏn vẹn mấy chục chữ, như chương 21 ở phần một: “Bên sông, bãi cỏ. Những người đàn ông, đàn bà quê mùa gào khóc. Thuyền đắm vì quá rách nát lại chở đông người. 7 người chết, 7 cái chiếu đắp. Mưa lất pha, lất phất. Gió lờn và lờn vờn. Bên kia bờ chính là trại giam mà chú Gió bị giam. Mây ơi!”.
Dù không phải tiểu thuyết trào phúng, nhưng “Chuyện làng Buông” được kể bằng giọng hài nhộn. Ngay các nhân vật cũng được đặt tên khá hóm hỉnh, Cát là con của ông Sỏi, Vung là con của ông Nồi. Còn ông Gió có hai con gái là Mây và Mưa, ông Làm cưới bà Tình có con là Sướng. Vì vậy, “Chuyện làng Buông” hư hư thực thực, cười đấy mà khóc đấy, mỗi người loay hoay trong tập tục cố hữu, trong giằng co ích kỷ, trong sấp ngửa thị phi, trong ham muốn tính dục, trong mất mát riêng tư. Thế nhưng, tình làng và nghĩa làng đã xoa dịu và níu kéo họ gần gũi nhau, tha thứ nhau, thức tỉnh nhau.
“Chuyện làng Buông” là những mảnh ghép kỷ niệm, nhiều xô đẩy và nhiều rung lắc. Tác giả Lưu Trọng Văn sắp xếp những “chiếu nghỉ” cho làng Buông bằng thi ca, dĩ nhiên là thơ đúng kiểu Lưu Trọng Văn. Ví dụ, thơ của Mưa đọc cho Cát nghe: “Mái rạ nghiêng à ơi mẹ hát/ Trăng dưới giếng khua vành nón chuối/ Mẹ bảo, con gái lớn rồi/ Đừng một mình tắm trăng/ Mẹ à ơi rồi mẹ vào giấc ngủ/ Em len lén ra giếng một mình/ Em xõa tóc, em cởi yếm/ Ngực khẽ đụng tàu chuối/ Trăng rớt đầy ngực em”.
Đọc tiểu thuyết “Chuyện làng Buông” của Lưu Trọng Văn, độc giả không chỉ được ghé qua một không gian xao xác bao nhiêu hoài vọng và nuối tiếc, mà còn được gợi mở suy ngẫm về nơi chôn nhau cắt rốn với ký ức đã gia giảm những oán cừu, những ngậm ngùi, những xót xa.
Nhân vật Cát trong “Chuyện làng Buông” luôn tin vào sự tử tế. Dẫu luôn bị khuất lấp và luôn bị đọa đày, thì sự tử tế nhỏ nhoi vẫn giúp quan hệ giữa con người với con người bớt lạnh lẽo, bớt hoang vu. Cái tên Cát được gửi gắm quan niệm cát tường chăng? Có lẽ tác giả Lưu Trọng Văn tuổi 73 không quá cầu kỳ mường tượng chữ “cát” trong tiếng Hán được ghép từ chữ “sĩ” và chữ “khẩu”. Cái tên Cát dường như tình cờ rơi ra, từ tên khai sinh Lưu Trọng Cát Văn của gã Lưu Trọng Văn chăng?