Bị lê “bỏ bùa”
“Chào các con nhé!”, TS Lê Thị Mỹ Hà (Viện Nghiên cứu Rau quả) vừa khẽ lấy tay xoa xoa vào mấy gốc cây rồi nhìn chúng bằng ánh mắt âu yếm. Vốn dĩ trước chúng là một giống lê khác, quả nhỏ, chất lượng không tốt đã được chị ghép cải tạo, thay toàn bộ khung tán.
Nhóm nghiên cứu của TS Hà đã giúp chủ vườn Hoàng Văn Khi ở thôn Nà Khau, xã Đội Cấn (huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn) ghép cải tạo rất nhiều gốc lê như vậy từ năm 2015 với tổng cộng 6 giống nhập từ Đài Loan về. Khi ghép như vậy, không chỉ chúng có bộ tán đẹp một cách cân đối mà còn ra nhiều quả, chất lượng ngon. Đó chính là những đứa con tinh thần đối với các nhà khoa học.
Giống cây ăn quả ôn đới bản địa ở tỉnh Lạng Sơn có hồng vành khuyên trải dài trên toàn bộ huyện Văn Lãng, có hồng Bảo Lâm tập trung ở xã Bảo Lâm của huyện Cao Lộc, rồi lê nâu, lê xanh, mận cơm… Mỗi loại cây có giá trị kinh tế riêng, được bà con tự phát triển, đặc biệt là diện tích mận cơm khá lớn ở các huyện Văn Quan, Cao Lộc và Văn Lãng, cho thu nhập khá tốt; diện tích hồng vào khoảng 2.500ha, trở thành cây mũi nhọn của huyện Văn Lãng.
Cây lê thì phổ hẹp hơn, chỉ rải rác quanh TP Lạng Sơn và đặc biệt ở huyện Tràng Định với câu “mận Thất Khê, lê Tràng Định”. Ở Tràng Định xã nào cũng có lê nhưng nhiều hơn cả là Đội Cấn, Quốc Khánh, Tri Phương, Đại Đồng…, tổng diện tích vào khoảng hơn 10ha. Năm 2005, nhóm nghiên cứu của TS Hà cũng đã đến với bản Khau Sâm xã Đội Cấn (huyện Tràng Định), lúc đó còn nhiều cây lê nâu và lê xanh.
Tỉnh Lạng Sơn muốn nhờ các nhà khoa học khôi phục lại những giống cây ăn quả ôn đới bản địa này theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng. Khi ấy, từ UBND xã vào các bản 100% là đường đất. Đến khi xong đề tài khôi phục giống lê bản địa vào năm 2009 vẫn chỉ là đường đất. Con đường đất chỉ rộng cỡ ba gang tay đó vào mùa mưa trở thành nỗi khiếp sợ với các nhà khoa học khi trơn như đổ mỡ.
TS Hà một lần ngồi sau xe máy anh Trưởng Phòng NN-PTNT huyện Tràng Định đã bay ngay xuống ruộng ngô, một lần ngồi sau xe máy anh cán bộ Phòng NN-PTNT đã bay thẳng vào bụi tre, về còn đau đến nửa tháng. Lúc đó chị đã có 2 con nhỏ mà mỗi lần lên phải mất 9 - 10 ngày mới giải quyết xong công việc. Đi suốt như thế đến nỗi chồng chị phải gọi điện nói móc: “Em có phải bùa anh nào trên đó không mà ở kỹ thế, không biết đường về? Có hết quần áo thì để anh gửi lên?”. Còn con nhỏ thì khi về có khi đã lạ, không nhận ra mẹ nữa.
Mỗi nhà dân trong bản nhiều thì có 5-7 cây lê, ít thì có 1-2 cây. Lê xanh có kích cỡ to, trung bình đạt 300 gram, lê nâu đạt 250-300 gram. Người dân trồng lê theo kiểu tự nhiên, không chăm bón, nếu có quả thì ăn, không thì thôi. Đầu tiên các nhà khoa học bón phân cho lê để cây phát triển tốt, rồi phòng trừ sâu bệnh, bao quả, cắt tỉa sau thu hoạch để định vị những cành mẹ tốt nhất cho vụ sau.
Với mục đích mở rộng diện tích lê bản địa, họ còn chọn những cây ngon để cắt mắt, nhân giống trồng thêm cho bà con được 3ha ở 3 xã gồm Tri Phương, Quốc Khánh và Đội Cấn. Khi trồng chúng hoàn toàn phù hợp với điều kiện sinh thái của vùng nhưng để nâng cao giá trị kinh tế thì những giống lê nhập nội được đưa thêm vào…
Vừa giới thiệu TS Hà vừa dẫn tôi vào khu vườn đẹp như cổ tích của ông Hoàng Văn Khi. Bên dưới là thảm cỏ xanh mướt với những chú gà thơ thẩn đi tìm côn trùng, bên trên là những gốc lê sai trĩu trịt quả màu nâu, xa xa là những ngọn núi xanh thẫm chìm trong mây mù như sương khói bay bảng lảng. Chị với tay hái một quả lê Mi Xue đưa cho tôi, bảo bình thường chúng vỏ màu nâu nhưng khi chín má quả chuyển sang ánh hồng.
Tôi chùi qua quả lê bằng vạt áo rồi đưa ngay lên miệng cắn nghe tiếng “rốp” giòn tan. Xuyên qua lớp vỏ ngoài ram rám là lớp mật ngọt bên trong tứa ra thơm và mát cả vòm họng khiến cho tôi quên hẳn vị của lê Hàn Quốc. TS Hà khẽ cười: “Mi Xue mềm, ngọt và mọng nước nhưng để ngon phải thu hoạch từ ngày 10 - 20 tháng 7 mới đạt chuẩn, chứ bây giờ hạt vẫn trắng chứ chưa đen hẳn đâu”.
Chất lượng hơn lê Hàn Quốc
Khi tôi mô tả lại cảm giác lần đầu tiên được nếm thử quả lê Mi Xue, GS.TS Vũ Mạnh Hải (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) gật gù đồng tình: “Bà vợ tôi ngay lần đầu ăn quả lê Mi Xue đã có nhận xét dù hính thức còn chưa thật hấp dẫn nhưng chất lượng cao hơn hẳn giống lê Hàn Quốc bán ở các siêu thị với giá cao ngất ngưởng. Quả lê Mi Xue ngon bởi dịch quả ngọt mát, lõi nhỏ, so với lê Hàn Quốc mang sang ta, bán rất đắt thì chất lượng hơn nhiều bởi brix (độ ngọt) 14 - 15%, so với 10 - 11%. Trọng lượng quả đạt khoảng 300gram, vỏ cứng nên tiện cho việc vận chuyển đi xa.
Đề tài “Phát triển một số cây ăn quả ôn đới có lợi thế ở vùng miền núi phía Bắc” của Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam này là sự kế tiếp dự án hợp tác giữa Đài Loan và Việt Nam theo một nghị định thư trao đổi về cây ăn quả. Ta đưa cho Đài Loan một số giống vải, nhãn, hồng, còn Đài Loan đưa cho ta các giống lê, đào, trong đó có giống lê Mi Xue.
Ông Hải kể: “Tôi có ông bạn người Đài Loan là nhà chọn giống cây ăn quả Âu Xi Khoan, làm việc tại Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Đài Loan (TARI) rất giỏi, rất yêu Việt Nam nên đã chọn cho ta nhiều giống cây ăn quả ôn đới tốt, phù hợp với điều kiện độ lạnh 150 - 300 CU vốn khá phổ biến ở nhiều địa phương miền núi phía Bắc. Trong bộ giống nhập nội từ Đài Loan về trước tiên, có thể khẳng định được 2 giống đào và 2 giống lê. Năm ấy ở thôn Nà Khau có 3 gia đình tham gia mô hình trồng lê nhưng 1 chủ nhà mất, 1 chủ nhà ốm nên vườn tược bị bỏ không chăm sóc, cây dần lụi tàn, chỉ có mỗi ông Hoàng Văn Khi là phát triển được”.
Trong ngôi nhà sàn đơn sơ nép mình bên sườn núi, nhìn ra vườn lê ông Khi rủ rỉ kể, trước đây trong bản có nhiều gốc lê nâu bản địa, quả to, ăn hơi chua chát nhưng thơm, ngon và bán được giá. Ngoài giống lê nâu, còn có giống lê xanh cọng quả to, lê xanh cọng quả nhỏ nhưng không được ưa chuộng nên gần như đã bị loại bỏ gần hết. Nhược điểm của các giống lê bản địa là cây hay bị chết, năm được mùa, năm mất mùa nên ông đồng ý cho các nhà khoa học ghép cải tạo bằng giống lê mới trên những gốc lê cũ.
Vừa làm ông vừa nghe ngóng xem có đạt hiệu quả không. Trái ngược với sự được mất thất thường của lê bản địa, giống lê ngoại năm nào cũng cho năng suất cao. Vườn rộng khoảng 5.000m2 với 120 cây có độ tuổi trung bình trên dưới 10 năm, mỗi năm cho thu 1,5 - 2 tấn quả. Với giá bán trung bình 20.000đ/kg, tính ra ông lãi cỡ 20 - 30 triệu đồng/năm. Vì không muốn đánh mất giống truyền thống nên ông vẫn giữ vài gốc lê nâu địa phương. Có gốc có vụ cho tới 3 tạ quả, có quả nặng tới 1,2kg, đến nỗi sợ rách túi bọc ông phải rạch bỏ.
Mùa này, quả lê đang sắp chín, bướm bay về từng đàn rập rờn. Nhìn đàn bướm ông cứ thấy nôn nao trong bụng, không ngủ được vì lo chúng châm vào quả lê gây thối, hỏng. Bởi thế mỗi tối ông lại đeo đèn hai lần đi tìm bướm. Mắt của lũ bướm bắt đèn đỏ hoe lên, rất dễ nhận biết. Khi phát hiện ra, ông khẽ tiến lại, dùng dây thun búng vào bướm cho rơi rụng xuống đất. “Tôi chịu khổ được nhưng nhìn quả lê bị bướm châm hỏng thì lại không chịu được, mà phun thuốc vào thời kỳ quả đã lớn lại gây hại cho người tiêu dùng nên phải búng kiểu thủ công như thế”, ông Khi bảo.
Đối với vấn đề bướm châm quả, các nhà khoa học trong đoàn khuyên nên dùng túi bọc quả, không chỉ bảo vệ được trước sâu hại mà còn tạo ra mã đẹp hơn. Mỗi túi bọc dùng được một vụ chỉ có giá khoảng 350 đồng. Ông Khi gật gù, ra chiều đồng ý. (Còn nữa).