Trống cơm ai vỗ nên bông
Một bầy con xít lội sông đi tìm
Thương ai con mắt lim dim
Một bầy con nhện đi tìm giăng tơ
Duyên nợ khách tang bồng.
Bài ca dao này đã được các nghệ nhân đất Kinh Bắc chế biến thành bài dân ca Quan họ danh nổi như cồn: Tình bằng có cái trống cơm/ Khen ai khéo vỗ (ấy mấy) bông nên bông, ấy mấy bông (mà) nên bông…
Trống cơm vốn là một loại nhạc cụ của người Chăm, người Trung Hoa gọi là Yêu Cổ, gần giống trống Mridangam ở Nam Ấn Độ. Sau những cuộc chinh chiến, trống cơm theo chân các tù binh Chiêm Thành ra Đại Việt từ cuối thế kỉ 10. Đến giữa thế kỉ 15, cùng với quá trình “hòa tan” của người Chăm vào người Việt, trống cơm đã phổ biến rộng rãi ở đồng bằng Bắc Bộ.
Trống cơm có dáng thon dài, khi biểu diễn thì đeo trước bụng, vừa nhảy múa vừa vỗ hai tay hai mặt. Trước khi đánh trống, người ta phải lấy cơm nếp giã mịn xoa vào hai mặt trống để định âm, gọi là cho ấm tiếng. Mặt trét nhiều cơm có âm trầm, gọi là mặt thổ. Mặt ít cơm thì âm cao, gọi là mặt kim. Hai âm cách nhau một quãng 5 đúng. Bởi thế trống mới có tên là Cơm.
Bài ca dao này nói về cái gì?
Trống cơm đeo trước bụng khiến người ta liên tưởng đến cái bụng bầu của cô gái “cả nể cho nên hóa dở dang, nỗi này chàng có biết chăng chàng” trong thơ Hồ Xuân Hương, sản phẩm của tiếng sét ái tình thơ mộng. Trống cơm trước bụng kêu “bông nên bông”, còn trống cơm do “tình bằng” mà có thì phải đeo 9 tháng 10 ngày. Xít (hay sít) là loài chim đẹp, lông xanh mướt, mỏ đỏ tía, mồng và chân đỏ tươi, sống bầy đàn nơi đầm lầy nước đọng.
Sau cuộc tình chớp nhoáng, tác giả của “trống cơm” hóa thân thành Sở Khanh quất ngựa truy phong, để lại “thương ai con mắt lim dim” cho cô gái đa tình nhẹ dạ. Con xít lội sông, con nhện giăng tơ là hình ảnh họ hàng, bạn bè cô gái nháo nhác dò hỏi, săn lùng “khách tang bồng” để bắt đền. Sông thì sâu, chân con xít lại ngắn, làm sao dò được cái chi? Tơ nhện mong manh trước gió, dễ gì bẫy được con mồi? Khách tang bồng chạy mất rồi, không tìm được đâu! Câu kết “duyên nợ khách tang bồng” trong dân ca Quan họ Bắc Ninh được các liền anh liền chị nhắc đi nhắc lại như “nỗi niềm có thấy hỡi chăng chàng” mà cô gái luôn mơ màng “em nhớ thương ai”.
Tang bồng là gì? Là nói tắt của “tang hồ bồng thỉ”. Tang là cây dâu (tằm ăn lá), hồ là cái cung, bồng là cây cỏ bồng, thỉ là mũi tên. Vậy, tang hồ bồng thỉ là cái cung làm bằng gỗ dâu, mũi tên làm bằng cây cỏ bồng. Gỗ dâu dẻo, thớ mịn, đàn hồi tốt. Cỏ bồng thân nhỏ, thẳng, cứng. Hai thứ này dùng làm cung và tên thì miễn chê.
Khách tang bồng là sao? Nay người ta gọi là khách thập phương hay khách vãng lai. Xưa, người Mông Cổ có phong tục khi cúng thôi nôi (tròn 1 tuổi) cho con trai, người cha trịnh trọng đặt đứa trẻ lên lưng ngựa rồi giương cung bắn sáu phát ra các hướng đông tây nam bắc, lên trời và xuống đất, với ngụ ý khi trưởng thành, đứa trẻ sẽ tung hoành giữa thảo nguyên bát ngát. Rồi người Hoa bị Mông Cổ cai trị, từ đó bắt chước, thế là phát sinh “thỏa chí tang bồng”, “nợ tang bồng”, “khách tang bồng”.
Người Việt lại bắt chước người Hoa, thế là tang bồng nhảy vào ca dao và dân ca. Về văn chương, trong bài Đi Thi Tự Vịnh của danh sĩ Nguyễn Công Trứ cũng có:
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Dở đem thân thế hẹn tang bồng
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.