Dự án tổng thể cấp nước tự chảy "hồi sinh" 4 dòng sông Hà Nội
Giải pháp xây đập dâng trên sông Đà sau cống Thuần Mỹ (huyện Ba Vì, Hà Nội) đã được ông Nguyễn Trường Duy, nguyên Trưởng phòng Quản lý xây dựng (Sở NN-PTNT Hà Nội), công bố cách đây 15 năm, trên Báo Nông nghiệp Việt Nam số 117 (3486) ngày 14/6/2010 thông qua bài viết “Hà Nội: Làm sống lại các sông nội thành thế nào?”.

Ông Nguyễn Trường Duy, tác giả của giải pháp xây dựng đập dâng trên sông Đà, và phương án tuyến chuyển nước vào sông Tích, sông Đáy, sông Nhuệ, sông Tô Lịch. Ảnh: Minh Phúc.
Với kinh nghiệm làm thủy lợi ở tỉnh Lai Châu, tỉnh Hà Sơn Bình (cũ), tỉnh Hà Tây (cũ) và làm quản lý xây dựng công trình nông nghiệp và phát triển nông thôn trên địa bàn Hà Nội, ông Duy thuộc như lòng bàn tay đặc điểm từng dòng sông và mạng lưới cấp nước khu vực phía Tây Thủ đô.
Nhờ các dữ liệu thu thập được trong quá trình công tác, ông đã phân tích và đưa ra giải pháp tổng thể cấp nước tự chảy cho các dòng sông phía Tây Hà Nội (sông Tích, sông Nhuệ, sông Đáy và sông Tô Lịch) mà không phải tái định cư cũng như bơm nước với chi phí tốn kém, chỉ cần đầu tư một lần để sử dụng vĩnh viễn.
Ông Duy phân tích, dòng sông Đà nằm ngay dưới chân núi Ba Vì (khu vực K9), nước rất trong. Nếu lấy được nước ở đó để đưa về Hồ Tây thì rất tốt. Đặc biệt, có câu “Chúng thủy giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu” (tất cả các dòng sông đều chảy về hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy về hướng Bắc), do đó, địa hình và mực nước ở khu vực cuối nguồn sông Đà rất cao so mực nước Hồ Tây Hà Nội.

Sơ họa tuyến công trình. Ảnh: Hội Cơ học Hà Nội.
Cống Thuần Mỹ (huyện Ba Vì) lấy nước vào sông Tích, nằm trên bờ hữu sông Đà, có 3 cửa, mỗi cửa rộng 6m và có 2 tầng lấy nước, tầng dưới cao trình đáy +5,5m và tầng trên cao trình đáy +10m. Với cao trình đáy cống thiết kế lấy nước như trên thì mực nước sông Đà trước cống dao động từ +9m đến +12m và lấy qua cống khoảng 100m3/s.
Nước vào sông Tích về đến Sơn Tây (Km37) có dòng chảy hở tự do không áp nên tổn thất ít, sẽ sử dụng cống điều tiết để điều chỉnh mực nước ở Sơn Tây khoảng +10m.
Trong khi đó, mực nước yêu cầu của sông Đáy (tại cống Cẩm Đình) chỉ 5,4m, sông Nhuệ (tại cống Liên Mạc) là 3,7m và sông Tô Lịch là +4,5m, nước hoàn toàn có thể tự chảy thông qua hệ thống kênh dẫn.
Tuy nhiên, do vài năm gần đây, việc khai thác cát và biến động của dòng chảy đã hạ thấp cao trình đáy sông Đà. Mực nước sông Đà trước cống Thuần Mỹ rất thấp, không lấy được nước vào sông Tích. Vì vậy cần làm đập dâng trên sông Đà để trả lại cao trình đáy sông Đà và mực nước theo thiết kế của cống Thuần Mỹ.

Tuyến kênh chuyển nước từ thị xã Sơn Tây về sông Nhuệ, sẽ chạy dọc theo trục đường Tây Thăng Long, đã được quy hoạch và cắm mốc chỉ giới. Ảnh: Minh Phúc.
Về tuyến dẫn nước, ông Duy phân tích, mặc dù toàn tuyến từ cống Thuần Mỹ về đến Hồ Tây dài khoảng 70km, nhưng lại phân ra làm 3 đoạn.
Đoạn thứ nhất, từ cống Thuần Mỹ về đến Sơn Tây là dòng sông Tích dài 37km, đã có sẵn. Đoạn thứ hai, từ Sơn Tây về đến vành đai 4 (xã Tân Hội, Đan Phượng) dài khoảng 21km, vẫn là đất nông nghiệp, đã được cắm mốc chỉ giới, có thể làm kênh hở, dưới là kênh dẫn nước, trên là đường giao thông. Đoạn thứ ba, từ đường vành đai 4 đến đường Võ Chí Công ra sông Tô Lịch dài khoảng 10km, đường đang thi công có đoạn đã xong chiều rộng B=60,5m, đoạn này lưu lượng nhỏ (5m3/s) nên có thể làm kênh hộp hoặc xi phông đi ngầm dưới vỉa hè đường.
“Cái hay của phương án trên là thành phố Hà Nội không cần phải di dân tái định cư mà chỉ phải giải phóng mặt bằng, nên triển khai thi công rất thuận lợi, giá thành hạ, không làm ảnh hưởng đến quy hoạch chung của Thủ đô”, ông Duy nhấn mạnh.
Về lưu lượng lấy nước đầu vào, luôn chủ động lấy nước vào sông Tích qua cống Thuần Mỹ khoảng 100m3/s. Tại cống điều tiết Sơn Tây chuyển 40m3/s theo sông Tích về sông Bùi; còn 60m3/s theo đường trục quy hoạch Tây Thăng Long về đến sông Đáy xả 30m3/s; về đến sông Nhuệ xả 25m3/s, còn lại 5m3/s về sông Tô Lịch và Hồ Tây.
Lưu lượng lấy nước (100m3/s) này chỉ bằng 60% lưu lượng của 3 con sông Tích, Nhuệ, Đáy đã được cấp phép, nên không ảnh hưởng đến việc thiếu nguồn của các vùng hạ du.
Tính ưu việt khi xây đập dâng trên sông Đà
Về vị trí xây đập dâng trên sông Đà, ông Duy cho biết, có thể lựa chọn ở khu vực cầu Trung Hà (huyện Ba Vì) để cấp nước chủ động luôn cho cả trạm bơm Sơn Đà và trạm bơm Trung Hà (hiện đang phải vận hành trạm bơm dã chiến).
Thứ hai, xây đập dâng ở cuối sông Đà đúng với Quyết định số 50 của Thủ tướng Chính phủ ngày 6/2/2023 phê duyệt Quy hoạch tổng thể lưu vực sông Hồng - sông Thái Bình thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đoạn 9 sông Đà từ Hợp Thanh (TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình) về đến xã Phong Vân (huyện Ba Vì, Hà Nội). Chức năng nguồn nước của đoạn sông này là cấp cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, giao thông thủy và sử dụng cho thủy điện. Vậy, cuối sông Đà có đập dâng là phù hợp với quy hoạch đã được phê duyệt. Bởi đập dâng có thể sử dụng đa mục tiêu như du lịch, phát điện cột nước thấp,… Hiện đã có một số doanh nghiệp sẵn sàng bỏ kinh phí đầu tư xây đập dâng kết hợp lắp đặt các tổ máy phát điện theo hình thức đối tác công tư.

Ý tưởng dẫn nước sông Đà hồi sinh các dòng sông phía Tây Hà Nội đã được ông Nguyễn Trường Duy công bố từ năm 2010. Ảnh: Minh Phúc.
Có tuyến đập dâng trên sông Đà chủ động cấp nước cho sông Tích, sông Đáy, sông Nhuệ thì đập dâng trên sông Hồng và sông Đuống sẽ giảm chiều cao, đảm bảo an toàn hơn khi gặp những trận lũ lịch sử.
Để khai thác đa giá trị, đa mục tiêu của nguồn nước, sẽ mời gọi nhà đầu tư nghiên cứu, đầu tư đập dâng theo hình thức đối tác công tư, khai thác thu hồi vốn từ phát điện và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của đập dâng sẽ có nhiều nhà đầu tư tình nguyện tham gia.
Đặc biệt, chất lượng nước sông Đà luôn trong sạch, vì bùn cát và tạp chất đã được lắng đọng qua 3 hồ thủy điện phía thượng nguồn (Hoà Bình, Sơn La và Lai Châu) và các hồ thủy điện trên sông nhánh (Huội Quảng, Bản Chát, Nậm Chiến, Nậm Na...), đủ tiêu chuẩn cung cấp cho sản xuất nông nghiệp và nước thô cho sinh hoạt dân sinh, cấp bổ sung vào Hồ Tây không phải qua xử lý mà không ảnh hưởng đến việc bảo tồn thủy sinh vật sống trong Hồ Tây.
Để hiện thực hóa ý tưởng này, ông Nguyễn Trường Duy đã tính toán chi tiết từng hạng mục đầu tư và chi phí cho từng hạng mục, gồm chi phí bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, chi phí xây dựng, chi phí thiết bị, chi phí quản lý dự án, chi phí tư vấn đầu tư xây dựng, chi phí khác và chi phí dự phòng, trượt giá với tổng số tiền 16.200 tỷ đồng. Tuy nhiên, do thời lượng bài viết có hạn, nên không thể đề cập chi tiết trong bài viết này.
"Giải pháp cấp nguồn tự chảy bền vững cho sông Tích, sông Đáy, sông Nhuệ, sông Tô Lịch và các ao hồ sông trong nội thành chỉ đầu tư một lần, chi phí không cao nhưng mang lại hiệu quả rất lớn, luôn chủ động cung cấp đủ nước để phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dân sinh, du lịch và các ngành kinh tế khác", ông Nguyễn Trường Duy chia sẻ.