Trao đổi

'Kỳ Yên' có phải như cách giải thích của giáo sư Trần Ngọc Thêm?

. - Thứ Sáu, 01/07/2022 , 06:48 (GMT+7)

Lễ Kỳ Yên bản chất là lễ tế, không phải 'lễ hội'. Dù xưa kia đã có nơi bày trò hát xướng, nhưng đa số không có phần 'hội' mà chỉ có phần 'lễ'.

Lễ Xây Chầu trong Lễ Kỳ Yên đình Bình Thủy, TP Cần Thơ. Ảnh: Torismcantho.

Nhà nghiên cứu văn hóa, GS.TSKH Trần Ngọc Thêm là tác giả sách “Cơ sở văn hóa Việt Nam”. Trong đó, ông quan niệm văn hóa Việt Nam có “bản chất âm tính”, rồi hầu như mọi hiện tượng xã hội đều được giải thích xoay quanh nó.

Trong tham luận “Xây dựng văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo” (nằm trong tập tài liệu “Hội thảo giáo dục Việt Nam 2021 - Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo”, Quốc hội Việt Nam - Ủy ban Văn hóa Giáo dục - Hà Nội, 11/2021), mục “2. Các mô hình văn hóa học đường”, GS Trần Ngọc Thêm viết: “Văn hóa Việt Nam truyền thống thuộc loại hình âm tính, trọng tĩnh điển hình. Do vậy, văn hóa học đường Việt Nam truyền thống thuộc loại hướng đến xã hội ổn định”.

Đến mục “3. Để có con người chủ động”, GS Trần Ngọc Thêm cho rằng, “loại hình âm tính, trọng tĩnh điển hình” của người Việt Nam thể hiện qua “lễ hội Kỳ Yên” và cách đặt “tên đất tên làng”.

Bài liên quan

Ông viết: “Xã hội Việt Nam truyền thống lấy nghề nông trồng lúa nước làm sinh kế, lấy văn hóa ưa ổn định làm nền tảng. Người dân Việt Nam quen lấy sự yên ổn làm hạnh phúc. Lễ hội thường niên ở các làng quê Việt Nam là lễ hội Kỳ Yên (= “Cầu An”’). Rất phổ biến là các tên đất, tên làng thể hiện ước vọng về một cuộc sống yên ổn. “Từ điển địa danh văn hóa và thắng cảnh Việt Nam” ghi nhận 138 địa danh chứa yếu tố “An”, “Bình”, “Yên” (Nguyễn Như Ý, Nguyễn Thành Chương, Bùi Thiết, 2004: 1158, 1163, 1215). Việc cung cấp một nguồn lực đảm bảo cho sự ổn định định này là người thừa hành (người công cụ). Người thừa hành là con người thụ động, yêu cầu này rất phù hợp với bản chất âm tính của văn hóa Việt Nam […]. Bản chất âm tính của văn hóa và người thừa hành là nguồn gốc của căn bệnh thụ động khép kín, bảo thủ” (Trần Ngọc Thêm 2016: 349 - 352).

Chỉ trong một đoạn viết ngắn, nhưng GS Trần Ngọc Thêm có nhiều điểm nhầm lẫn, suy diễn.

Kỳ Yên không phải là “lễ hội”

Lễ Kỳ Yên bản chất là lễ tế, không phải “lễ hội”. Bởi vậy, dù xưa kia đã có nơi bày trò hát xướng, nhưng đa số không có phần “hội” mà chỉ có phần “lễ” với nghi thức lập đàn cầu cúng, tổ chức trong phạm vi hẹp của làng xã, theo kiểu “chuông làng nào làng ấy đánh, thành làng nào làng ấy thờ”. Trong khi với lễ hội, thì bên cạnh phần lễ bao giờ cũng phải có phần hội, thu hút khách thập phương tới dự cuộc vui chung.  

“Kỳ Yên” không phải là cầu cho “ổn định”

Lễ Kỳ An hay Kỳ Yên không phải là cầu cho “ổn định” (với nghĩa “thụ động”, “bảo thủ”, không có biến chuyển, thay đổi nói chung), mà với mục đích tống tiễn ôn hoàng dịch lệ gây chết chóc đau thương, đem lại bình an cho xóm làng.

Sách “Việt Nam phong tục” (Phan Kế Bính) mục “Lễ Kỳ An” viết: “Vào khoảng cuối xuân đầu hạ, nhiều nơi làm lễ Kỳ An. Vì mùa ấy thường có dịch khí, tục tin là việc quỉ thần, cho nên cúng cấp để cầu cho dân làng được yên lành”.

Trong lễ Kỳ Yên, người ta lập đàn cúng tiễn thần Ôn, hay Ôn chúa. Khi tiễn, thầy phù thủy tay cầm nắm hương hoặc bó lửa, thư phù niệm chú, tay cầm ấn quyết triệt lộ, tiễn ra khỏi đầu làng, đầu chợ, ngã ba, ngã bảy mới đốt, nghĩa là tống đi cho xa, kẻo sợ ôn dịch ở quanh quẩn trong làng. Còn như bất thời có dịch khí lưu hành, dân làng nghe có nhiều người chết, thì mua vàng hương hoa quả thiết đàn giữa sân đình, cúng tiễn ôn quan, gọi là lễ tiến thảo (Phan Kế Bính - sách đã dẫn).

Vì lễ Kỳ Yên là lễ tống tiễn ôn hoàng dịch lệ, nên người ta còn gọi là lễ cầu mát, “tống ôn, tống gió, lập đàn - tràng cúng vào đầu mùa hè (ở Bắc) hoặc đầu tháng hai (ở Nam) để cầu gió thuận mưa hòa, đưa hết bệnh tật đi nơi khác” (Việt Nam tự điển - Lê Văn Đức).

Xưa kia, ngoài lễ Kỳ Yên, hàng năm còn có tuần đại tế gọi là tế kỳ phúc, tổ chức xuân thu nhị kỳ, cầu cho dân được bình an, hạnh phúc. Dĩ nhiên trong lễ tế kỳ phúc có cả cầu cho tránh được dịch bệnh.

Nói một cách dễ hiểu, lễ Kỳ An, Kỳ Yên hay cầu mát đầu mùa dịch của dân ta xưa giống như biện pháp “phòng dịch”, tiêm chủng ngừa cúm mùa hay dịch bệnh hiện nay vậy.

“An”, “Bình”, “Yên”, không phải là “ổn định” với nghĩa tiêu cực

Các địa danh chứa yếu tố “An”, “Bình”, “Yên”, cũng có nghĩa là bình an (Nghệ An, Hòa An…), bình yên (Hòa Bình, Ninh Bình, Bình Thuận…), yên ổn (Phú Yên, Yên Thế, Vĩnh Yên…) không chiến tranh loạn lạc, thiên tai địch họa, chứ không phải biểu hiện cho “bản chất âm tính của văn hóa và người thừa hành là nguồn gốc của căn bệnh thụ động khép kín, bảo thủ” của người Việt, và “Việc cung cấp một nguồn lực đảm bảo cho sự ổn định định này là người thừa hành (người công cụ)”, như GS Trần Ngọc Thêm suy diễn.  

Bình an, hòa bình, yên ổn luôn là mong ước của mọi cư dân trên thế giới. Ngay cả với dân du canh du cư hay du mục “dương tính” thì họ cũng cần sự “yên ổn”, “ổn định” theo cách của họ, chứ không riêng gì cư dân “âm tính” trồng lúa nước.

Như vậy, GS Trần Ngọc Thêm đã nhầm lẫn giữa sự trì trệ, chậm phát triển của “xã hội Việt Nam truyền thống lấy nghề nông trồng lúa nước làm sinh kế”, với ước vọng về một cuộc sống bình yên, không thiên tai dịch bệnh, không chiến tranh loạn lạc nói chung, thể hiện qua lễ Kỳ Yên và cách đặt tên đất tên làng có “chứa yếu tố “An”, “Bình”, “Yên” của người Việt Nam.

Theo đây, sẽ không có gì đáng bàn cãi, nếu như nhận xét “người dân Việt Nam quen lấy sự yên ổn làm hạnh phúc”, và “rất phổ biến là các tên đất, tên làng thể hiện ước vọng về một cuộc sống yên ổn”, không bị GS Trần Ngọc Thêm võ đoán gán cho “bản chất âm tính của văn hóa và người thừa hành là nguồn gốc của căn bệnh thụ động khép kín, bảo thủ”.

Hoàng Tuấn Công

Tiếng Việt - Văn Việt - Người Việt là chuyên mục mới trên báo Nông nghiệp Việt Nam, được đặt theo tên một cuốn sách của Giáo sư Cao Xuân Hạo, nhà ngữ học và là một trí thức tinh hoa của đất nước.

Tên chuyên mục cũng nói hộ sự kỳ vọng kiến tạo và chấn hưng những giá trị đang bị xô lệch bởi cơn bão thời đại vốn lẫn nhiều gió độc. Ở đây, các nhà nghiên cứu và người Việt nói chung quan tâm đến văn hóa dân tộc sẽ góp tiếng nói sâu sắc, chính trực trong một khát vọng chung nhằm góp phần xây dựng những nền tảng quan yếu cho một xã hội tốt đẹp trong hiện tại và cho tương lai.

Rất mong nhận được sự ủng hộ, chia sẻ và cộng tác của những bậc thức giả cùng bạn đọc yêu mến!

Bài viết cho chuyên mục xin được gửi về Báo Nông nghiệp Việt Nam, 14 Ngô Quyền, Hà Nội. Email: baonnvnts@gmail.com.

Hoặc liên hệ người phụ trách chuyên mục: Ông Tô Đức Huy, Trưởng ban Thư ký Tòa soạn; Điện thoại: 0913.378.918; Email: toduchuy75@gmail.com.

NNVN

.
Tin khác
Nhà văn Y Ban đã thấy gì trên đỉnh giời?
Nhà văn Y Ban đã thấy gì trên đỉnh giời?

Nhà văn Y Ban tiếp tục khẳng định một giọng nữ đặc sắc trong đời sống văn chương Việt Nam, bằng tập truyện ngắn có tên gọi ‘Trên đỉnh giời’.   

Cựu chiến binh hồi tưởng mặt trận gần phía trước
Cựu chiến binh hồi tưởng mặt trận gần phía trước

Cựu chiến binh Trần Trí Thông gửi gắm niềm riêng qua trường ca ‘Mặt trận gần phía trước’ phát hành đúng dịp kỷ niệm 80 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.

Nhà văn Anh Đức trong ký ức đồng nghiệp thế hệ sau
Nhà văn Anh Đức trong ký ức đồng nghiệp thế hệ sau

Nhà văn Anh Đức được hậu sinh nhắc đến một cách trân trọng tại hội thảo kỷ niệm 10 năm ông qua đời, vừa tổ chức sáng 18/12 ở TP.HCM.

Tác giả trẻ My Tiên và vùng da thiêng nhiều cảm xúc
Tác giả trẻ My Tiên và vùng da thiêng nhiều cảm xúc

Tác giả trẻ My Tiên ở đất võ Bình Định vừa ra mắt tập thơ ‘Vùng da thiêng’ với nhiều cảm xúc nồng nàn về quê hương và con người Nam Trung bộ.

Mạch nha Thi Phổ
Mạch nha Thi Phổ

Làng Thi Phổ thuộc huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, là nơi sản xuất loại mạch nha thơm ngon nổi tiếng trong cả nước, gọi là 'mạch nha Thi Phổ'.

Tác phẩm Hồ Biểu Chánh vẫn được công chúng đón nhận
Tác phẩm Hồ Biểu Chánh vẫn được công chúng đón nhận

Tác phẩm Hồ Biểu Chánh không chỉ được chuyển thể thành phim truyền hình và phim điện ảnh, mà còn liên tục tái bản với số lượng lớn để phục vụ độc giả.

Khảo cứu: Bài thơ 'Bán than' không phải của Trần Khánh Dư
Khảo cứu: Bài thơ 'Bán than' không phải của Trần Khánh Dư

Trong 'Quốc văn trích diễm', giáo sư Dương Quảng Hàm trích bài thơ 'Bán than' và cho là của Trần Khánh Dư. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tác giả là người khác.

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đậm đà cốt cách Nam bộ
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đậm đà cốt cách Nam bộ

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, tác giả được giải thưởng Hồ Chí Minh, được hậu sinh kỷ niệm 10 năm ông đi xa, bằng một hội thảo tổ chức tại TP.HCM sáng 6/12.

Tinh hoa làng nghề chạm bạc Đồng Xâm
Tinh hoa làng nghề chạm bạc Đồng Xâm

Trên bia đá đền thờ tổ nghề chạm bạc Đồng Xâm có tuổi đời gần 600 năm ghi dấu ấn tinh hoa làng nghề và những điều răn dạy con cháu giữ nghiêm phép nghề.

'Hưng Hóa kí lược' - Một cuốn toàn thư về đất và người Tây Bắc
'Hưng Hóa kí lược' - Một cuốn toàn thư về đất và người Tây Bắc

Nội dung của 'Hưng Hóa kí lược' có 12 đề mục, bao gồm đầy đủ nội dung truyền thống của một cuốn địa chí.

Nhà thơ Đinh Nho Tuấn đoạt giải nhất ‘Nhân nghĩa đất phương Nam’
Nhà thơ Đinh Nho Tuấn đoạt giải nhất ‘Nhân nghĩa đất phương Nam’

Nhà thơ Đinh Nho Tuấn với chùm thơ về vẻ đẹp đô thị năng động và bao dung, đã được trao giải nhất cuộc thi thơ ‘Nhân nghĩa đất phương Nam’ năm 2024.

Nhà thơ xứ Nghệ có nốt nhạc mùa trong ký ức xanh
Nhà thơ xứ Nghệ có nốt nhạc mùa trong ký ức xanh

Nhà thơ xứ Nghệ Trần Quang Khánh chắt chiu cảm xúc những ngày quân ngũ và những năm dạy học để gửi gắm vào vần điệu chân thành và sâu lắng.