Thái Hạo: Tiếng cười, tiếng chửi và tiếng nói

Thái Hạo - Thứ Bảy, 28/01/2023 , 12:54 (GMT+7)

Khi nào mà người ta lấy tiếng nói để đối thoại, tranh biện và tự vấn thì khi đó các giá trị mới sẽ có cơ may được kiến tạo một cách có hệ thống.

Trong ba “tiếng”, tiếng cười, tiếng chửi và tiếng nói, thì vế sau cùng phải là một lựa chọn chủ đạo. Ảnh minh họa.

Tết, có đứa em bà con ở Nhật Bản đã nhiều năm về và lên nhà chơi, tôi tranh thủ hỏi hắn về những khác biệt văn hóa giữa hai nước. Hắn kể nhiều, nhưng tôi muốn ghi lại chi tiết này, là người Nhật không chửi nhau.

Bài liên quan

Hắn nói, điều đầu tiên được dạy khi đến Nhật là “không làm phiền người khác”, tuyệt đối không. Nhưng người Việt mình thì vốn quen với văn hóa làng xã, thích tụ tập quây quần và dường như không thể sống một mình như người Nhật, nên luôn tụ lại, ăn nhậu, hát hò, chuyện trò rầm trời. Mỗi khi như thế, một ông chủ hay hàng xóm người Nhật, trừ trường hợp là chỗ rất quý mến thì họ sẽ chỉ nhắc nhở một lần “chúng mày nhỏ lại một chút, đừng làm ồn”, lần sau thì báo cảnh sát luôn.

Họ không chửi, việc mâu thuẫn, vi phạm, bất hòa sẽ luôn được nhờ đến cảnh sát và tòa án, trong trường hợp chưa có sự can thiệp của các cơ quan ấy thì chuyện chửi nhau như Việt Nam cũng không bao giờ xảy ra. Hình ảnh hai người đứng bên bờ rào chửi sang hay la hét trên phố mỗi lần có va chạm là chuyện hoàn toàn xa lạ và quái đản đối với người Nhật.

Tôi nghĩ về cái chửi của người Việt mình. Phải chăng, việc “tự giải quyết” đã trở thành phương cách chủ đạo trong đời sống xã hội, mà ở đó “chửi” là một lựa chọn dễ nhất, và lắm khi hiệu quả? Khi không đòi được công bằng nhờ một trọng tài có trách nhiệm và công tâm, thì tiếng chửi sẽ giúp sát thương và hủy hoại đối phương bằng ngôn từ. Điều ấy mang lại cho họ chút thỏa mãn vì “công lý đã được thực thi”.

Người Việt không có phòng riêng. Những ngôi nhà “cổ truyền” của người Việt là 3 gian thông với gian giữa để thờ và 2 đầu kê giường ngủ. Căn buồng thì thường để cất lúa ngô khoai sắn và cất giữ vài thứ tài sản nghèo nàn nào đó, chứ không phải một không gian cá nhân. Nếu nhà đông người mà có con gái lớn thì có thể sẽ được dành cho một cái chái nhà (đầu hồi), vừa đủ kê một chiếc giường nhỏ. Nói chung, ngôi nhà của người Việt là một không gian công cộng.  

Công cộng không chỉ là đối với người trong nhà, mà còn là đối với hàng xóm. Người Việt hay đi tắt, cứ sát nhà nhau là mở lối (lỗ thủng) để đi qua, cho tiện! Vào nhà nhau, dù bằng đường tắt hay cổng chính thì cũng vẫn “tự nhiên như ruồi”. Người ta tới nhà nhau chơi mà không có thói quen hẹn trước, cứ thể hồn nhiên mà tới.

Ngày nay, dù đã “hiện đại hóa” nhưng thói quen đi thẳng vào phòng ngủ, ngồi lên giường, mở tủ lạnh “kiểm tra” vẫn được coi như một biểu hiện của sự thân tình, gần gũi. Khi không có ý niệm về sự riêng tư và đời sống cá nhân thì việc vào ra như thế phải trở thành lẽ thường. Nếu trong làng mà có một gia đình nào đó “kín cổng cao tường”, ít giao du thì rất dễ mang tiếng là “sống không biết ai”, “không có tình làng nghĩa xóm”...

Người Việt ở nông thôn cách đây vài chục năm thậm chí còn không có nhà tắm. Người ta tắm lộ thiên ngay bên cạnh giếng khơi bằng cách đứng mà dội nước ào ào. Phụ nữ muốn tắm thì phải đợi trời tối. Nghĩ đến những ngày mùa đông rét cóng, cảnh đàn bà con gái dội nước lạnh vào người giữa trời gió bấc hun hút mà vừa thương vừa giận. Đôi khi chúng ta không thể hiểu nổi, tại sao việc chôn 4 cây cọc tre với quây miếng cót nứa cho thành một cái “nhà tắm” lại khó khăn tới mức trải suốt hàng nhiều trăm năm lịch sử mà người Việt không thể làm nổi!

Có lẽ không phải vì không thể làm nổi cái việc chia phòng hay quây cái nhà tắm, mà là người ta không muốn làm, hay không cần làm. Vì tự trong sâu thẳm, họ không có nhu cầu riêng tư. Ngôi nhà là một không gian công cộng, đình làng cũng là một không gian công cộng, họ luôn phải thuộc về tập thể, biến mất trong tập thể, nhạt nhòa và tan loãng. Chính những khó khăn trong đời sống vật chất một phần đã giữ chặt họ trong nếp sống quảng trường ấy, vĩnh viễn biến họ trở thành một phần của đám đông muôn đời.

Sự bất tiện kéo dài đến nghìn năm thì thành “văn hóa”, thành tính cách và lối sống. Dần, người ta mất luôn nhu cầu độc lập. Người Việt không thể sống một mình. Những kẻ một mình là loại lập dị và thường gây nên nỗi thương cảm, nếu không phải là sự dè bỉu. Người ta phải quây lại với nhau, trở thành bầy đàn.

Không có sự độc lập, hay nói theo ngôn ngữ văn chương là “sự cô đơn”, thì không có sáng tạo. Nếu nhân cách là một phân số, thì người Việt sống bằng một tử số rất bé trên một mẫu số cộng đồng lớn lao. Giá trị của phân số ấy vì thế mà trở nên nhỏ nhít, tan biến và gần như chạm đến mức cực tiểu. Đời sống tập thể ồn ào với ăn, nói, hát, chung đụng đã trở nên một nhu cầu, một thứ bản năng, trở thành niềm vui và thước đo của hạnh phúc.

Oái oăm thay, như những con nhím mùa đông, người ta vì nỗi thống khổ của rét mướt mà sáp lại, nhưng luôn bị những chiếc lông nhọn hoắt châm chích vào nhau. Đó là một bi kịch của sự sung sướng được san sẻ cộng gộp luôn nỗi khó chịu phiền hà đau nhức. Người Việt ở trong tình thế lưỡng nan ấy, họ vừa không thể xa nhau nhưng lại cũng vừa không thể rúc hẳn vào nhau.

Bi kịch chồng lên bi kịch. Cái tôi là một bản năng tiền sử, nó luôn có nhu cầu được bảo vệ và chứng tỏ. Vì thế, dù khát vọng tụ tập lớn tới đâu, nó vẫn luôn âm thầm một mãnh lực chống đối và tị hiềm. Người Việt, vì thế, “ở không yên ổn, ngồi không vững vàng”. Trong một tập thể khổng lồ không có cơ may xé lẻ, nhìn từ bên ngoài là “đoàn kết”, là “lớn mạnh” nhưng bước chân vào trong thì đầy rẫy mâu thuẫn với những tiếng nổ lách tách làm nứt ra các vết rạn lớn nhỏ. Những tiếng nổ lục đục ấy diễn ra mọi lúc, mọi nơi, trong suốt trường kỳ lịch sử. Trong khi vừa sung sướng vì sà vào nhau, nỗi bất mãn cũng đồng thời nhen lên. Cứ như thế, người Việt bị lưu đày trong văn hóa của mình.

Tôi hỏi đứa em về đời sống tình cảm của người Nhật, hắn nói: “Em đã rời công ty cũ hơn 2 năm, nhưng đến nay họ vẫn thường gọi điện hỏi thăm và hay căn dặn mình nhiều thứ, vì sợ mình gặp phải những điều bất lợi, không may”.

Hắn nói thêm, nhưng công việc thì ra công việc. Nếu không hiểu thì thấy họ như “người máy”, đúng là đúng, sai là sai, không bao giờ có chuyện vừa đúng vừa sai, du di, chín bỏ làm mười như người Việt mình. Đi làm cho họ hay với họ, nếu mình vi phạm, dù thân thiết và chỉ là đối với những nguyên tắc nhỏ nhặt nhất, thì họ vẫn rạch ròi tới mức khiến mình bị “sốc văn hóa”, vì người Việt mình trong những tình huống như thế sẽ lựa chọn xuê xoa “một trăm cái lý không bằng một tí cái tình”.

Cái tình của người Việt, vì thế, có lẽ là thứ tình nhiều lúc vì cả nể, vì ngại mất lòng, nó tù mù và luôn tiềm ẩn nguy cơ “cạch mặt”. Trên một căn bản đạo lý lớn, là “luân lý xã hội” hay “ý thức công lợi” như Phan Châu Trinh nói thì các giá trị từ tình cảm đến tự do mới có đất để nảy mầm và lớn dậy. Chừng nào mà sự gắn kết mới chỉ dừng lại ở nhu cầu vị kỷ, cả vị kỷ vì tinh thần - không chịu nổi nỗi cô đơn, thì khi đó cái “tình làng nghĩa xóm” của người Việt còn là một thứ “văn minh” tiềm ẩn những nguy cơ chia rẽ, luôn luôn.

Trưởng thành, trước hết là một nghĩa vụ cá nhân đối với chính mình. Khi chưa có được một nền tảng quản trị tiến bộ với tinh thần thượng tôn pháp luật thì mỗi người phải dám sống cô đơn, dám đi một mình trên con đường không có tha nhân. Lúc ấy, những năng lực ẩn tàng sẽ phát lộ, tình yêu con người vô tư và vô vị lợi sẽ được khởi động, một lý tưởng lớn về nhân quần sẽ mọc ra.

Tiếng chửi là đại diện cho sự bất lực, tiếng cười là hình ảnh của nỗi tự an ngụy tín, chúng đôi khi cũng cần được dùng đến trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định, nhưng nếu kéo dài và trở thành “chủ âm” của cả một cộng đồng trong suốt hàng trăm năm thì khi đó, nó đã trở nên một thứ bệnh lý tinh thần.

Trong ba “tiếng”, tiếng cười, tiếng chửi và tiếng nói, thì vế sau cùng phải là một lựa chọn chủ đạo. Khi nào mà người ta lấy tiếng nói là trung tâm của đời sống, để giao tiếp, đối thoại, tranh biện và tự vấn thì khi đó các giá trị mới sẽ có cơ may được kiến tạo một cách có hệ thống.

Thái Hạo
Tin khác
Nhà văn Anh Đức trong ký ức đồng nghiệp thế hệ sau
Nhà văn Anh Đức trong ký ức đồng nghiệp thế hệ sau

Nhà văn Anh Đức được hậu sinh nhắc đến một cách trân trọng tại hội thảo kỷ niệm 10 năm ông qua đời, vừa tổ chức sáng 18/12 ở TP.HCM.

Tác giả trẻ My Tiên và vùng da thiêng nhiều cảm xúc
Tác giả trẻ My Tiên và vùng da thiêng nhiều cảm xúc

Tác giả trẻ My Tiên ở đất võ Bình Định vừa ra mắt tập thơ ‘Vùng da thiêng’ với nhiều cảm xúc nồng nàn về quê hương và con người Nam Trung bộ.

Mạch nha Thi Phổ
Mạch nha Thi Phổ

Làng Thi Phổ thuộc huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, là nơi sản xuất loại mạch nha thơm ngon nổi tiếng trong cả nước, gọi là 'mạch nha Thi Phổ'.

Tác phẩm Hồ Biểu Chánh vẫn được công chúng đón nhận
Tác phẩm Hồ Biểu Chánh vẫn được công chúng đón nhận

Tác phẩm Hồ Biểu Chánh không chỉ được chuyển thể thành phim truyền hình và phim điện ảnh, mà còn liên tục tái bản với số lượng lớn để phục vụ độc giả.

Khảo cứu: Bài thơ 'Bán than' không phải của Trần Khánh Dư
Khảo cứu: Bài thơ 'Bán than' không phải của Trần Khánh Dư

Trong 'Quốc văn trích diễm', giáo sư Dương Quảng Hàm trích bài thơ 'Bán than' và cho là của Trần Khánh Dư. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tác giả là người khác.

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đậm đà cốt cách Nam bộ
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đậm đà cốt cách Nam bộ

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, tác giả được giải thưởng Hồ Chí Minh, được hậu sinh kỷ niệm 10 năm ông đi xa, bằng một hội thảo tổ chức tại TP.HCM sáng 6/12.

Tinh hoa làng nghề chạm bạc Đồng Xâm
Tinh hoa làng nghề chạm bạc Đồng Xâm

Trên bia đá đền thờ tổ nghề chạm bạc Đồng Xâm có tuổi đời gần 600 năm ghi dấu ấn tinh hoa làng nghề và những điều răn dạy con cháu giữ nghiêm phép nghề.

'Hưng Hóa kí lược' - Một cuốn toàn thư về đất và người Tây Bắc
'Hưng Hóa kí lược' - Một cuốn toàn thư về đất và người Tây Bắc

Nội dung của 'Hưng Hóa kí lược' có 12 đề mục, bao gồm đầy đủ nội dung truyền thống của một cuốn địa chí.

Nhà thơ Đinh Nho Tuấn đoạt giải nhất ‘Nhân nghĩa đất phương Nam’
Nhà thơ Đinh Nho Tuấn đoạt giải nhất ‘Nhân nghĩa đất phương Nam’

Nhà thơ Đinh Nho Tuấn với chùm thơ về vẻ đẹp đô thị năng động và bao dung, đã được trao giải nhất cuộc thi thơ ‘Nhân nghĩa đất phương Nam’ năm 2024.

Nhà thơ xứ Nghệ có nốt nhạc mùa trong ký ức xanh
Nhà thơ xứ Nghệ có nốt nhạc mùa trong ký ức xanh

Nhà thơ xứ Nghệ Trần Quang Khánh chắt chiu cảm xúc những ngày quân ngũ và những năm dạy học để gửi gắm vào vần điệu chân thành và sâu lắng.

Vẻ đẹp núi rừng qua trang văn của tác giả dân tộc Thái
Vẻ đẹp núi rừng qua trang văn của tác giả dân tộc Thái

Vẻ đẹp núi rừng ở miền tây xứ Nghệ được tác giả Hữu Vi phác họa sinh động và quyến rũ qua tập truyện ngắn ‘Cái chết của bầy ong’.

Nhà văn Sơn Nam đã có thêm một khách tri âm
Nhà văn Sơn Nam đã có thêm một khách tri âm

Nhà văn Sơn Nam đã được nhiều tác giả tập trung nghiên cứu, và chuyên luận ‘Khí chất Nam Bộ qua truyện Sơn Nam’ chứng minh rằng ông có thêm một khách tri âm nữa.