Hội nghị do Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương chủ trì phối hợp với Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản tổ chức.
Phát biểu đề dẫn tại Hội thảo, TS. Lại Xuân Môn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương cho biết, Tổng Bí thư Tô Lâm, trong các bài viết, bài phát biểu quan trọng gần đây, đã đề cập đến vấn đề kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng của Tổng Bí thư Tô Lâm đã được Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII thống nhất khẳng định. Đây là một chủ trương, định hướng mới, có tầm chiến lược phát triển đất nước, có ý nghĩa chính trị to lớn, cần được đưa vào Văn kiện Đại hội XIV, quán triệt sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và tổ chức thực hiện với quyết tâm chính trị cao.
Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, vấn đề mới cả về lý luận lẫn thực tiễn cần được nghiên cứu, luận giải thấu đáo, tạo sự thống nhất cao về nhận thức, hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Cuộc hội thảo hôm nay là cuộc hội thảo đầu tiên bàn về vấn đề quan trọng này, đặt cơ sở để chúng ta tiếp tục đi sâu nghiên cứu, bàn thảo làm sáng tỏ, sâu sắc, đầy đủ hơn những vấn đề lý luận, thực tiễn của kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Một số nhận thức chung
Kỷ nguyên mới, theo cách hiểu thông thường là thời điểm mở đầu gắn với một sự kiện trọng đại có ảnh hưởng lớn đến các giai đoạn phát triển tiếp theo (của một lĩnh vực, cộng đồng... hay của quốc gia, nhân loại).
Ở nước ta, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 đã đưa đến thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra một thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh vinh quang, khởi đầu kỷ nguyên độc lập tự do. Từ năm 1945 đến năm 1975, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã tập trung thực hiện hai nội dung lớn của kỷ nguyên đầu tiên của cách mạng Việt Nam: giành, giữ độc lập, tự do cho Tổ quốc và chuẩn bị tiền đề ban đầu cho kỷ nguyên thứ hai.
Năm 1975 đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tạo tiền đề vững chắc để đến năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới, đất nước bước vào kỷ nguyên thứ hai - kỷ nguyên thống nhất, đổi mới.
Gần 40 năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã quyết tâm, quyết liệt tiến hành công cuộc đổi mới, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Mục tiêu và những nội dung lớn của kỷ nguyên thống nhất, đổi mới về cơ bản đã hoàn thành, cho phép đất nước ta bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên thứ ba: kỷ nguyên phồn vinh, hạnh phúc.
Phải chăng, định hướng bước vào “kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” là phù hợp với logic phát triển của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đến thời điểm Đại hội XIV, cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước cho phép và đòi hỏi nước ta phải có bước phát triển đột phá, tăng tốc để phát triển nhanh, mạnh, bền vững? Đây là đòi hỏi khách quan, là bước phát triển hợp quy luật của cách mạng Việt Nam, là sự phát triển lên một trình độ mới, cấp độ mới của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhân loại đang bước vào một thời kỳ phát triển mới, nhanh chóng, với nhiều biến đổi rất lớn và căn bản, vừa có nhiều thách thức mới vừa tạo ra những vận hội, thời cơ phát triển mới.
Đặc biệt, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những thành tựu đột phá vừa tạo ra những thách thức lớn vừa mở ra những cơ hội, thời cơ phát triển mới chưa từng có. Quốc gia nào tận dụng được thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thể tạo ra sự phát triển bứt phá. Đảng ta đã nhận thức đúng, đã quyết tâm nắm bắt cơ hội này, đã và đang thực hiện nhiều giải pháp tích cực để thích ứng, khai thác, phát huy các thành tựu vượt trội của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây chính là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, phát triển bứt phá, đuổi kịp, tiến nhanh cùng thời đại. Đây chính là khởi điểm lịch sử trong tiến trình phát triển, đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Như vậy, Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển bứt phá, khởi đầu từ Đại hội XIV là phù hợp với quy luật khách quan của cách mạng Việt Nam và xu thế của thời đại. Vấn đề này, rất mong các chuyên gia, các nhà khoa học luận giải sâu sắc hơn.
Quan niệm bước đầu về nội hàm và trụ cột phát triển
Theo Chủ tịch HĐKH các cơ quan Đảng Trung ương Lại Xuân Môn, một câu hỏi lớn đặt ra phải giải đáp: nội hàm kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc Việt Nam là gì? Việt Nam kiến tạo kỷ nguyên mới trên những trụ cột nào?
Phải chăng Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là khoảng thời gian Việt Nam đột phá, tăng tốc phát triển toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực, đưa đất nước, xã hội, con người phát triển lên một tầm vóc, chất lượng, trình độ mới, tiên tiến, văn minh, hiện đại; hiện thực hóa mục tiêu xây dựng một Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội; đóng góp tích cực, xứng đáng vào sự phát triển hòa bình, tiến bộ, thịnh vượng của nhân loại!
Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam phát triển trên cơ sở những thành tựu tiên tiến, hiện đại của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhằm phát triển mạnh mẽ, đồng bộ của các lĩnh vực, trong đó có những trụ cột phát triển chủ yếu.
Một là, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập, phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất số gắn với quan hệ sản xuất số; có cơ cấu hợp lý, hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, kết nối; mô hình tăng trưởng theo chiều sâu bền vững trên nền tảng nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học, công nghệ hiện đại, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh; phát triển các mô hình, phương thức kinh doanh, sản xuất mới phù hợp với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; có năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao và tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu.
Hai là, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, kỷ cương, “Dân là gốc”, “Dân là trung tâm”, “Dân là chủ”; phát triển hài hòa, lành mạnh, bền vững trên nền tảng xã hội số và nền quản trị hiện đại; công khai, minh bạch, đồng thuận với sự kết nối, tương tác, chia sẻ thông tin trực tiếp, thường xuyên giữa Nhà nước với doanh nghiệp, người dân và giữa các thành viên xã hội.
Ba là, dân tộc đoàn kết, thông thái, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc; nền văn hóa đặc sắc, kết tinh những giá trị tinh hoa của dân tộc văn hiến, anh hùng và những giá trị văn hóa của nhân loại; con người Việt Nam phát triển toàn diện, yêu nước, thông minh, năng động, đổi mới, sáng tạo, hội nhập, có khát vọng cống hiến vì sự phồn vinh của quốc gia, dân tộc; tăng cường nguồn lực nội sinh, sức mạnh mềm Việt Nam.
Bốn là, nền quốc phòng, an ninh hiện đại, vững mạnh, nền ngoại giao rộng mở, trình độ cao; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa, trong mọi tình huống; nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của một Việt Nam hùng cường, hòa bình, hữu nghị.
Năm là, hệ thống chính trị tinh gọn, thống nhất, đồng bộ, thông suốt, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; nòng cốt là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp, phát huy cao độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, thượng tôn pháp luật, thúc đẩy xây dựng chính phủ số, xã hội số, kinh tế số, xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại.
Đề cao vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước, hệ thống chính trị và xã hội; xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, văn hóa, đạo đức, tổ chức, cán bộ; nâng cao bản lĩnh, trí tuệ của Đảng, đặc biệt là tầm nhìn chiến lược, năng lực hoạch định, thực hiện đường lối đúng đắn và năng lực tạo thời cơ, chớp thời cơ, chuyển hóa nguy cơ, thách thức thành thời cơ phát triển đất nước nhanh, đột phá, bền vững.
Để đạt được mục đích, yêu cầu đề ra; đồng thời, với những vấn đề nêu trên, tại hội thảo này, ông Lại Xuân Môn rất mong các vị đại biểu, các chuyên gia, các nhà khoa học tập trung làm rõ một số nội dung quan trọng sau:
Thứ nhất, về công tác lý luận, tư tưởng cần phải được tiến hành với tư duy mới, cách tiếp cận mới như thế nào để vừa kế thừa tư duy, kinh nghiệm đúng đã tích lũy được, vừa đổi mới mạnh mẽ, cầu thị tiếp cận, tiếp thu những tư duy mới, xu hướng phát triển mới của thời đại với tinh thần tiến cùng thời đại. Đổi mới mạnh mẽ tư duy là khâu mở đầu có ý nghĩa đột phá.
Thứ hai, về tầm quan trọng, các giải pháp chủ yếu tập trung hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả hệ thống thể chế phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam; kiên quyết xóa bỏ những rào cản, điểm nghẽn, cản trở phát triển; khắc phục triệt để thực trạng khâu tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng... vẫn là khâu yếu, hình thành hệ thống thể chế đồng bộ, thông thoáng mở đường đột phá về thu hút, phát huy các nguồn lực phát triển; thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao, phát huy và trọng dụng nhân tài, đẩy mạnh cuộc cách mạng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh tạo điều kiện phát triển mạnh các mô hình, phương thức kinh doanh, sản xuất mới phù hợp với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đầu tư tập trung các nguồn lực để phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ, liên thông, đặc biệt là hạ tầng số, giao thông, năng lượng mới...
Thứ ba, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam như thế nào để đáp ứng yêu cầu rất cao của kỷ nguyên mới? Làm thế nào để xây dựng được bộ máy tổ chức của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả? Làm thế nào để đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược thật sự trong sạch, đủ năng lực, trình độ, trí tuệ, dũng khí để thiết kế, dẫn dắt cán bộ, đảng viên, Nhân dân bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam?
Thứ tư, cần thực hiện những giải pháp hữu hiệu nào để phát huy tính Đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, như Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chính sách; lãnh đạo thể chế hóa đường lối, chính sách thành pháp luật để quản lý Nhà nước và xã hội; cần có cơ chế kiểm soát hiệu quả việc thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật của Nhà nước để chính sách, pháp luật thể hiện được đầy đủ ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân, khuyến khích đổi mới sáng tạo, thu hút mọi nguồn lực cho sự phát triển; linh hoạt, kịp thời phản ứng chính sách, xử lý kịp thời các vấn đề thực tiễn phát sinh làm chậm sự phát triển theo nguyên tắc bảo vệ, bảo đảm lợi ích của quốc gia, dân tộc là trước hết và trên hết.
Thứ năm, về cuộc cách mạng chuyển đổi số, như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: chúng ta đang đứng trước yêu cầu phải có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học - công nghệ nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất, xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”. Về vấn đề này, cần làm rõ thế nào là phương thức sản xuất số? Mối tương quan giữa phương thức sản xuất số với kinh tế tri thức và với phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa là gì? Đây là vấn đề lý luận rất cơ bản cần được làm sáng tỏ.
Thứ sáu, về chống lãng phí, như Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ: để nắm bắt cơ hội, đẩy lùi thách thức, gia tăng mạnh mẽ nguồn lực chăm lo cho nhân dân, làm giàu cho đất nước trong giai đoạn cách mạng mới, xây dựng tương lai tốt đẹp; công tác phòng, chống lãng phí cần được triển khai quyết liệt, đồng bộ với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Về vấn đề này, chúng ta cần làm rõ quan hệ biện chứng giữa phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với chống lãng phí và những giải pháp đủ mạnh để đạt kết quả cao.
Ông Lại Xuân Môn tin tưởng rằng, ý kiến của các đại biểu, các chuyên gia, nhà khoa học tại Hội thảo hôm nay sẽ cung cấp luận cứ khoa học vững chắc, góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, góp phần xây dựng nội dung Văn kiện Đại hội lần thứ XIV của Đảng.