Thành phố Cần Thơ được ví là trái tim của miền Tây Nam bộ thuộc dòng sông Hậu Giang. Câu hò trên sông Hậu đã có lời ca: “Cần Thơ có bến Ninh Kiều/ Có dòng sông đẹp có nhiều giai nhân”. Riêng về hát hò tiêu dao, đờn ca tài tử thì không đâu bằng Cần Thơ. Chả thế từ hồi chúa Nguyễn Ánh khi du thuyền nơi đây cứ ngỡ ngàng chìm đắm trong mê cung đàn ca sáo nhị. Ngài đã đặt tên con sông là Cầm Thi.
Thật tiếc chúng tôi đã lỡ dịp dự cuộc thi đờn ca tài tử của 21 tỉnh miền nam lần thứ III tại Cần Thơ vào tháng 4/2022). Đoàn nhà văn chúng tôi tới Nhà sáng tác Cần Thơ vào tháng 5 nhưng tại Bình Thủy những sân khấu quán ca vẫn chưa kịp dọn dẹp. Không gian âm nhạc vẫn còn vang vọng trên sông Cần Thơ. Thật may mắn chúng tôi được gặp nghệ nhân ưu tú Trường Út vừa rời cuộc thi với chủ đề “Cần Thơ hòa điệu phương Nam”.
Ông cho biết cuộc thi có hơn 500 nghệ sĩ của 21 tỉnh đoàn tới dự nên rộn ràng náo nức. Đặc biệt lực lượng diễn viên trẻ ngày càng đông nên không gian âm nhạc thêm tươi trẻ mới lạ. Sân khấu được dựng lên phong cảnh chợ nổi Phong Điền, Cái Răng thật sinh động. Hình ảnh cô lái đò bồng bềnh trên sông với tiếng rao mời đon đả trong tiếng đờn ca tài tử dặt dìu. Tôi sực nhớ đến câu thơ của thi sĩ Thế Phong khi đến đây đã viết: “Cầm Thi hay Cần Thơ dào dạt/ Tiếng đờn ca tài tử giai nhân/ Lời thương hồ chào đón ân cần/ Gió sông hát Tình anh bán chiếu”…
Sau đó đoàn nhà văn có dịp đi Thốt Nốt là nơi sinh thành ra đờn ca tài tử ở thủ phủ Cần Thơ. Người hướng dẫn chúng tôi là anh Lâm Hoàng Trường An, chuyên viên phòng văn hóa huyện. Anh hồ hởi kể chuyện về nguồn gốc sâu xa của nghệ thuật đờn ca tài tử ở phương nam xuất hiện từ năm 1885 (nay đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại).
Những câu thơ của Thế Phong hòa tan trong câu chuyện: “Nụ cười em Cần Thơ vời vợi/ Tôi ngẩn ngơ đưa mắt về xa/ Mũi thuyền quay mái tóc lưng xòa/ Trôi theo em hồn tôi sóng vỗ”. Mạch nguồn cảm xúc thơ như gợi nhớ đến lời hát “Tình anh bán chiếu” của cố soạn giả Viễn Châu (1924 - 2016), ở Trà Vinh cách đây hơn 60 năm. Chuyện kể, hồi đó có giọng hát cải lương Út Trà Ôn (1919 - 2001), sinh ra tại Trà Ôn (xưa thuộc tỉnh Cần Thơ) nổi như cồn mà ai cũng ngưỡng mộ. Mặc dù còn trẻ nhưng Út Trà Ôn đã đoạt giải nhất cuộc thi đờn ca tài tử. Một giọng hát làm mê mẩn lòng người vì nỗi buồn thổn thức qua lời ca.
Trong một dịp thu đĩa theo hợp đồng quan trọng, ông chủ hàng đĩa nhạc Hoa Hồng đã đặt hàng cho soạn giả Viễn Châu viết bài riêng cho Út Trà Ôn ca (1961). Soạn giả Viễn Châu nhận lời nhưng trong lòng phân vân chưa biết sẽ viết ra sao. Sau đó ông có chuyến đi từ Bạc Liêu về và dừng chân ở Ngã bảy Phụng Hiệp. Từ trong quán hàng ông nhìn thấy một anh chàng bán chiếu ngồi nghỉ bên đường. Gương mặt anh ta phảng phất nỗi buồn trước sóng nước bao la. Những chiếc chiếu hoa vẫn còn thơm phấn bên bờ cỏ. Anh ta buồn vì nỗi chi mà sao rầu rĩ.
Trong lòng Viễn Châu thấy cảm thông nỗi niềm trắc ẩn của người bạn trẻ. Ngay lúc đó một đoàn thuyền rộn ràng trống phách đi tới đón dâu trong lễ cưới. Người bán chiếu nhìn theo mà lòng buồn rười rượi. Bất ngờ một tín hiệu lóe sáng trong tâm tưởng soạn giả Viễn Châu. Và ông đã bắt đầu thiên tình sử vọng cổ của mình qua câu chuyện tưởng tượng về cuộc tình của người bán chiếu. Chàng trai và cô gái hò hẹn làm chiếu hoa cho tương lai. Nhưng khi chàng trai dệt xong chiếu dong thuyền tới nhà nàng thì mới hay tin cô đã đi lấy chồng. Câu chuyện và lời ca cứ thế tuôn chảy trong nỗi cảm xúc hóa thân kỳ lạ của người nghệ sĩ. Bài hát “Tình anh bán chiếu” ra đời như trong mơ vậy.
Cho đến nay ngoài danh ca Út Trà Ôn xuất chúng còn có hàng trăm nghệ sĩ đã luyện bài vọng cổ này để khẳng định tên tuổi của mình. Cũng từ đó bài hát “Tình anh bán chiếu” được coi là “lòng bản” tình ca đặc trưng cho nghệ thuật Vọng cổ phương Nam. Anh Lâm Hoàng Trường An nói hàng trăm đội Đờn ca tài tử đều dàn dựng tiết mục này làm chương trình diễn xướng chính để phục vụ du khách mỗi khi đến Cần Thơ. Đúng lúc đó lời bài hát đã bay lên từ một miệt vườn bên cồn Tân Lộc lảnh lót buồn nẫu ruột: “Tôi vác đôi chiếu bông mà cõi lòng tan nát, bước chân đi như thể xác không… hồn. Nước mắt cứ tuôn rơi như lá rụng trên đường”. Con phà hối hả chạy ngang dòng sông Hậu Giang nhưng trong lòng chúng tôi lại nặng trĩu nỗi niềm mênh mang “Hỡi ôi, con sông Phụng Nghiệp nó chảy ra bảy ngã, mà sao lệ của tôi cũng lai láng muôn dòng”.
Câu chuyện chúng tôi được tiếp tục khi dừng chân tại khu tưởng niệm Hậu tổ cải lương Mộc Quán - Nguyễn Trọng Quyền (1876 - 1953) ở Thốt Nốt. Tên của ông đã được định danh cho cuộc thi ca cải lương thường kỳ ở Cần Thơ. Chúng tôi bồi hồi lắng nghe lời cô hướng dẫn viên kể chuyện. Giọng cô trong vắt như có tiếng nhạc cổ phong reo lên khi nói về nghệ thuật cải lương.
Cô nói Hậu tổ cải lương Mộc Quán - Nguyễn Trọng Quyền đã để lại hơn 50 tuồng vở cải lương đặc sắc ở Nam bộ. Trong đó có những vở sống rất lâu dài như “Phụng Nghi Đình” (Lã Bố hý Điêu Thuyền), “San Hậu”, “Giọt máu chung tình”, “Hoa mộc lan tòng quân”… Hàng chục nghệ sĩ nổi tiếng thời đó thường theo ông học tuồng và trình thức biểu diễn. Trong đó có những học trò nổi bật và sáng giá như Năm Châu, Phùng Há, Kim Cúc, Kim Lan… Đặc biệt thầy tuồng Mộc Quán - Nguyễn Trọng Quyền còn là người đầu tiên đã đưa bản nhạc “Dạ cổ hoài lang” của nhạc sư Cao Văn Lầu (1890 - 1976), người Bạc Liêu, vào sân khấu cải lương.
Bài hát đã được sáng tạo trên nền nhạc với nhịp phách mở rộng tạo nên những câu vọng cổ làm rơi lệ người nghe. Bài vọng cổ này đã sớm ra đời trước bản “Tình anh bán chiếu” và cũng trở thành bài tủ của nhiều danh ca cải lương ở nước ta.
Câu chuyện về bài hát “Dạ cổ hoài lang” không có nét tự sự của một câu chuyện dài như “Tình anh bán chiếu” mà ngắn gọn chan chứa nỗi niềm thương nhớ. Nét u uẩn trong tâm can của người vợ trông chồng làm day dứt lòng người. Nhạc sư Cao Văn Lầu đã từng tâm sự rằng, ông rất thương vợ khi đã bị gia đình hắt hủi vì ba năm không sinh được con. Người vợ đã bị trả về nhà ngoại theo hủ tục xưa. Ông đã bí mật đưa vợ tới một gia đình người nhà tin cậy, giấu không cho cha mẹ biết. Hai người thường lén gặp nhau và hẹn có ngày đoàn tụ. Từ đó ông sống trong sự xa cách buồn sầu và thương nhớ vợ khôn nguôi.
Một đêm tỉnh giấc trong lòng nhớ vợ da diết, nhạc sư Cao Văn Lầu đã sáng tác bài “Dạ cổ hoài lang”. Viết thay cho lời vợ ngóng chồng nhưng đó chính lại là hồn vía của chính nhạc sư. Lời hẹn hò thủy chung luôn là lời tự răn trong lòng mình: “Đường dầu sai ong bướm/ Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang/ Đêm luống trông tin bạn/ Ngày mỏi mòn như đá Vọng phu/ Vọng-Phu vọng luống trông tin chàng/ Lòng xin chớ phụ phàng”.
Thật không ngờ khi về tới một quán cà phê ở ngoại vi thành phố Cần Thơ chúng tôi lại được nghe những âm thanh vọng phu của nhạc sư Cao Văn Lầu. Dường như “Dạ cổ hoài lang” có sức lan tỏa lâu bền hơn 100 năm qua. Bản nhạc được viết và phổ biến vào năm 1918 và đã làm thay đổi sắc thái nghệ thuật cải lương miền nam. Bản vọng cổ này còn là hồn cốt cho những sáng tạo trong các lĩnh vực sân khấu kịch và điển ảnh.
Riêng vở kịch nói “Dạ cổ hoài lang” của Thanh Hoàng (TP.HCM) trên nền nhạc cổ điển này đã thành công rực rỡ (1994). Tác phẩm được trình diễn tới 1000 đêm theo yêu cầu của khán giả khắp đất nước. Trên các du thuyền cùng cánh thương hồ ai nấy đều bị bỏ bùa mỗi khi ai đó cất lên lời ca “Tình anh bán chiếu” hay “Dạ cổ hoài lang”. Hình ảnh những nghệ sĩ dân gian với chiếc áo bà ba cất lên tiếng hát trong các khoang thuyền luôn thu hút người nghe. Dàn nhạc rung lên và ai nấy lặng người vì những câu hò bay xa: “Tôi lần theo hoa trôi ven bờ/ Tìm người cùng mây soi gương thơ/ Mong hoài mà sao ai tình cờ/ Cung huyền Cầm Thi trôi sông mơ” (Trôi-Thế Phong).