| Hotline: 0983.970.780

Góp ý dự thảo quy chuẩn quốc gia về chất lượng phân bón

Thứ Năm 06/03/2025 , 16:45 (GMT+7)

Một số suy nghĩ của người đã có nhiều năm hoạt động trong ngành phân bón. Rất mong được ban soạn thảo và các cơ quan quản lý liên quan lưu ý.

Ngày 26/2/2015 Hiệp hội Phân bón Việt Nam gửi bản Dự thảo quy chuẩn quốc gia về phân bón và yêu cầu các thành viên cho ý kiến nhanh trước khi Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng Quốc gia soát xét. Xin đưa ra một vài góp ý.

Dự thảo tiêu chuẩn phân bón gây tranh cãi vì quá phức tạp khiến doanh nghiệp gặp khó và người dùng nhầm lẫn. 

Dự thảo tiêu chuẩn phân bón gây tranh cãi vì quá phức tạp khiến doanh nghiệp gặp khó và người dùng nhầm lẫn. 

Giải thích từ ngữ 

Trong mục 1.3 giải thích từ ngữ có đến 141 tiểu mục giải thích, định nghĩa về chất dinh dưỡng và các loại phân bón và sau đó kèm theo cỡ 4,5 trang viện dẫn tài liệu, nhưng theo các chuyên gia vẫn còn sót nhiều loại.

Bản dự thảo cũng liệt kê 49 chỉ tiêu cần phân tích kèm theo trên 60 tiêu chuẩn Việt Nam về phương pháp thử để phân tích các chỉ tiêu này. Ngoài ra còn có một số phương pháp khác được Cục Bảo vệ thực vật (nay là Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật) chỉ định.

Trong phần: Phụ lục I yêu cầu về chỉ tiêu chất lượng chính và mức sai lệch giữa kết quả thử nghiệm so với mức đăng ký… Bản dự thảo cũng đưa ra các nhóm phân bón, rồi tổ hợp chúng lại, kết hợp với các thành phần dinh dưỡng nêu để trở thành định nghĩa nhiều dạng phân bón khác nhau khiến người đọc khó hiểu.

Dưới con mắt của người làm chuyên môn, tôi thấy: 

Thứ nhất, về việc phân loại các loại phân bón và các chất dinh dưỡng giúp người sử dụng dễ dàng nhận biết phân bón (chất dinh dưỡng) đó thuộc nhóm nào (vô cơ/hữu cơ/vi sinh) có thể sử dụng trong lĩnh vực canh tác nào (nông sản sạch, nông sản hữu cơ…).

Nhà quản lý căn cứ vào đó quy định ra các mức chất lượng tối thiểu loại phân bón đó phải đạt được để đỡ lãng phí tài nguyên, chi phí sản xuất cho sản phẩm đó (ví dụ lân nung chảy thì P2O5 hữu hiệu tối thiểu phải đạt 13,5% trở lên; Urea hàm lượng N tối thiểu phải đạt 45% trở lên... Đồng thời chỉ ra phải áp dụng tiêu chuẩn, phương pháp phân tích nào để quản lý, thử nghiệm chất lượng các chất đó.

Các loại phân bón phân loại theo cách này sẽ trở nên rất nhiều mà nếu liệt kê theo phương pháp này không bao giờ đầy đủ. Ví dụ phân bón lót/bón thúc/bón rễ/bón lá/bón phục hồi/bón đón dòng/đón hoa/dưỡng quả…) cho (lúa/vải/nhãn/ xoài…) chẳng hạn. Vì vậy, hãy để cho nhà sản xuất tự công bố còn nhà quản lý chỉ cần đưa ra các nhóm phân bón chính thôi.

Thứ hai, xem trong mục 1.3 giải thích từ ngữ, cũng như mục 2.1 phân loại phân bón, ta thấy chỉ cần thêm mấy từ là đã có ngay một loại phân bón mới. Trong khi về bản chất chỉ có mấy loại phân bón chính là: 1) Phân bón hóa học; 2) Phân hữu cơ; 3) Phân vi sinh vật; 4) Các chất cải tạo đất; 5) Các chế phẩm sinh học; nếu có chăng chỉ thêm 6) Các nguyên tố đất hiếm nữa là cùng hoặc 7) Phân hỗn hợp (khi phối trộn các loại trên với nhau).

Nhìn tổng thể ngoại trừ đạm Urea, NH4Cl được gọi là phân bón đơn (chỉ có duy nhất một yếu tố dinh dưỡng), còn lại đều là phân bón chứa từ hai đến ba loại dinh dưỡng khác nhau hoặc liên kết với nhau bằng liên kết hóa học hoặc là một khối hỗn hợp nhiều chất với nhau.

Ta đem phối trộn các loại phân hóa học với nhau hoặc với phân hữu cơ, với các chế phẩm sinh học, chất cải tạo đất, vi sinh vật được các hỗn hợp gọi là phân trộn hoặc phân hỗn hợp. Vậy chỉ cần lấy tên chung là phân hỗn hợp rồi công bố các thành phần cũng như mức chất lượng trên bao bì là xong. Không cần thiết phải đưa ra nhiều khái niệm có thể gây rối rắm về chủng loại phân bón?

Sản xuất phân lân nung chảy.

Sản xuất phân lân nung chảy.

Điều này dễ gây bất công giữa những nhà máy phân bón hóa chất phải đầu tư công nghệ, thiết bị khổng lồ để tạo ra một loại phân bón. Trong khi các doanh nghiệp ít đầu tư chỉ cần mua Urea, DAP, Lân nung chảy, Supe… về và cho tí bột sà vân, đô lô mít, thậm chí là bột đất sét, ít đất hiếm hoặc vẩy vào đó mấy giọt chế phẩm sinh học rồi đăng ký thành một loại phân mới cao cấp hơn cả các sản phẩm của các nhà máy trên.

Thứ ba, không nên nhầm lẫn giữa phân bón với chất cải tạo đất cũng như với chế phẩm sinh học; chất kích thích, điều hòa sinh trưởng. Bản dự thảo đang đánh đồng tất cả những thứ này thành phân bón. Việc này có thể làm sai lệch tính đặc thù của phân bón và gây nhầm lẫn cho người sử dụng.

Thứ tư, về định nghĩa “nguyên tố dinh dưỡng trong phân bón là các nguyên tố hóa học cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng” và “ở dạng cây trồng có thể hấp thu được” là chưa đủ. Chính xác phải là “ở dạng cây trồng dễ dàng hấp thụ” nghĩa là nguyên tố dinh dưỡng đó phải tan tốt trong nước hoặc môi trường axít nitric 2% (tương đương với môi trường do rễ cây tiết ra). Ai cũng biết trong không khí chứa 78%N, nếu trong đất có vi sinh vật tổng hợp đạm cây có thể hấp thụ được N trong không khí, nhưng không khí không phải là phân bón.

Thứ năm, trong dự thảo có tiêu chí phương pháp thử nghiệm N/K2O/P2O5 hữu hiệu, nhưng các chất trung lượng SiO2/MgO/CaO/S mới chỉ có phương pháp phân tích hàm lượng tổng số, chưa ai nói về hàm lượng hữu hiệu và cũng chưa có phương pháp phân tích hàm lượng các chất này ở dạng hữu hiệu (activ).

Từ đó, dẫn đến thực tế hiện nay xuất hiện vô số cơ sở sản xuất chỉ thuần túy trộn đô lô mít, đá sà vân, cao lanh, đất sét, xỉ lò nghiền… để sản xuất phân bón trung lượng hoặc để bổ sung thành phần trung lượng cho sản phẩm của mình (vì trong sà vân, đô lô mít, xỉ lò có CaO, MgO, SiO2, trong đất sét, cao lanh... có trên 60%SiO2). Điều này tạo ra sự bất công bằng với các công ty sản xuất phân bón trong ngành hóa chất.

Việc chứng nhận hợp quy phân bón hiện không còn phù hợp gây khó khăn cho nhà sản xuất, tăng chi phí và giá thành sản xuất.

Việc chứng nhận hợp quy phân bón hiện không còn phù hợp gây khó khăn cho nhà sản xuất, tăng chi phí và giá thành sản xuất.

Thứ sáu, dự thảo đưa ra định nghĩa các sản phẩm như: phân Đạm hữu cơ; phân DAP hữu cơ; phân Kali sinh học… Việc này dễ làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn coi đó là phân hữu cơ, phân sinh học dùng trong canh tác hữu cơ. Nên chăng ta gọi đúng tên của nó là phân hỗn hợp (gồm Urea/DAP/KCl với phân hữu cơ/ chế phẩm sinh học…).

Thứ bảy, dự thảo đã đưa ra mức cho phép hàm lượng các kim loại nặng, axit dư nguy hiểm, các vi khuẩn có hại cho một số loại phân bón. Nhưng lại không khống chế hàm lượng các chất trên với những sản phẩm sử dụng các loại phân bón này làm nguyên liệu sản xuất.

Chứng nhận hợp quy không còn phù hợp

Dự thảo đưa ra mức quy định các thành phần dinh dưỡng cho phép. Các doanh nghiệp cũng đã công bố tiêu chuẩn chất lượng các thành phần này trên bao bì. Căn cứ vào đó các cơ quan quản lý chất lượng, thị trường lấy mẫu kiểm tra. Nếu không đạt thì xử lý phạt tiền, đưa lên phương tiện thông tin hoặc đình chỉ hoạt động. 

Vậy tại sao lại phải chứng nhận hợp quy. Đánh giá hợp quy chỉ dựa trên mẫu sản phẩm điển hình (tại một thời điểm) đạt yêu cầu, nhưng có thời hạn tới 3 năm. Vậy trong ba năm đó có đảm bảo sản phẩm này luôn hợp chuẩn không? Việc này chỉ gây khó khăn cho nhà sản xuất, tăng chi phí và giá thành. 

Trên đây là một số suy nghĩ của một người đã có nhiều năm hoạt động trong ngành phân bón. Rất mong được ban soạn thảo và các cơ quan quản lý liên quan lưu ý để việc soạn thảo, ban hành các quy chuẩn có chất lượng, tháo gỡ khó khăn cho nhà sản xuất và người tiêu dùng cũng như giảm bớt các thủ tục không cần thiết.

Hiệp hội Phân bón Việt Nam

Xem thêm
Đừng để lép vàng vi khuẩn khiến lúa mất năng suất và chất lượng

ĐBSCL Sản phẩm TT Biomycin 40.5WP của Công ty TNHH TM Tân Thành được biết đến là giải pháp hữu hiệu quản lý lép vàng vi khuẩn.

Các mặt hàng khô dầu đậu tương làm thức ăn chăn nuôi cần được hưởng mức thuế chung 1%

Cục Chăn nuôi vừa có công văn gửi Tổng cục Hải quan, đề xuất, kiến nghị áp dụng thuế suất chung 1% với mặt hàng khô dầu đậu tương làm thức ăn chăn nuôi.

Giải pháp ổn định môi trường nước và kiểm soát EHP trong nuôi tôm

ĐBSCL EHP (Enterocytozoon hepatopenaei) là bệnh nguy hiểm cho nghề nuôi tôm hiện nay, làm cho nhiều vụ nuôi phải thu hoạch sớm, hoặc mất trắng.