Ngày 28/3, tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng quy mô lớn nhất từ trước đến nay, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giới thiệu, quán triệt chuyên đề về Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030 và Phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2021-2025.
Theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030 mà Thủ tướng trình bày tại Hội nghị đã xác định đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và xác định cả tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Việt Nam phấn đấu đến năm 2030, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 7.500 USD. Trong 5 năm tới (2021 - 2025), Việt Nam xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP bình quân đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD.
5 quan điểm phát triển
Theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, để đạt được những mục tiêu trên cần phát triển theo 5 quan điểm.
Thứ nhất, phát triển nhanh và bền vững; dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phải đổi mới tư duy và hành cộng, chủ động nắm bắt cơ hội; phát triển hài hòa 3 trụ cột kinh tế - xã hội và môi trường.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; lấy cải cách, nâng cao chất lượng thể chế và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ nguồn lực; thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số, các sản phẩm dịch vụ, mô hình mới; côi trọng quản lý phát triển xã hội; phát triển nhanh, hài hòa các khu vực kinh tế, phát triển kinh tế tư nhân thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế;..
Thứ ba, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng sức mạnh nội sinh quan trọng; phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước;…
Thứ tư, xây dựng nền kinh tế tự chủ trên cơ sở làm chủ công nghệ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; phát huy nội lực là yếu tố quyết định gắn lới ngoại lực và sức mạnh thời đại.
Thứ năm, chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường với quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn…
Những gì Nhà nước không cần làm thì để xã hội làm, không “ôm đồm” hết tất cả
Về nội dung cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước, Thủ tướng lưu ý đến năm 2025 hoàn thành việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp này; xử lý cơ bản các yếu kém của các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước, chống tham nhũng, "sân trước sân sau" trong doanh nghiệp nhà nước. Phấn đấu có càng nhiều tập đoàn kinh tế tư nhân lớn mạnh, để đến năm 2030, Việt Nam có những tập đoàn hàng đầu khu vực. “Chúng ta không thành kiến mà tạo điều kiện bình đẳng để doanh nghiệp tư nhân phát triển”, Thủ tướng nói. Đặc biệt, chúng ta phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân vươn ra toàn cầu và có thương hiệu lớn.
3 thành tố trọng tâm
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết, chủ đề chiến lược phát triển đất nước trong thời gian tới là: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Thủ tướng nêu rõ, 3 thành tố trọng tâm trong chủ đề chiến lược gồm:
Thứ nhất, động lực và tinh thần quyết tâm: Khơi đậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại.
Thứ hai, cách thức và phương tiện chủ yếu là: Huy động mọi nguồn lực phát triển nhan và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, và chuyển đổi số.
Thứ 3 về mục tiêu phấn đấu: Phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Đột phá chiến lược bao gồm những nội hàm mới, đột phá thứ nhất là tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nâng cao chất lượng thể chế, bảo đảm đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập (trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, thị trường khoa học, công nghệ). Huy động, sử dụng các nguồn lực thực hiện theo cơ chế thị trường; đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội.
Xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền XHCN tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, bảo đảm quản lý thống nhất và phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành.
Đột phá thứ hai là, tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị, văn hóa, con người Việt Nam.
Đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo; chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài.
Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để đạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh (có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội).
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam.
Đột phá thứ ba là tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại. Trọng tâm là ưu tiên phát triển hạ tầng trọng yếu về giao thông, năng lượng, công nghệ thông tin, đô thị lớn, hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu. Phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, vùng, địa phương kết nối đồng bộ thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số.
Nếu không tăng trưởng cao liên tục, chúng ta sẽ tụt hậu
Chiến lược xác định 11 chỉ tiêu, trong đó có 7 chỉ tiêu kinh tế, 4 chỉ tiêu môi trường. Áp lực đối với chúng ta là liên tục tăng trưởng cao. Các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc có 2-3 thập niên liền liên tục tăng trưởng cao.
Việt Nam hoàn toàn có khả năng tăng trưởng cao, nếu không có biện pháp để tăng trưởng cao thì sẽ tụt hậu, không phát triển bền vững, nghèo, thu nhập thấp, lạc hậu.
Chúng ta phải đi trước đón đầu, quyết tâm chính trị cao, ý chí dân tộc và khát vọng phát triển trong mọi người dân, cơ sở trong thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu. Cho nên, tăng trưởng cao liên tục trong mấy thập kỷ là điều cần thiết. Năm nay, chúng ta phấn đấu 6-6,5%, sang năm có thể 7%, nhưng sắp tới phải 8-9% bình quân.
Phấn đấu trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng
Thủ tướng nhấn mạnh, Việt Nam sẽ phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, bảo đảm am ninh lương thực, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị trường, xuất khẩu.
Phát triển công nghiệp kết hợp hài hòa cả chiều rộng và chiều sâu. Khuyến khích mạnh mẽ sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân trong nước. Phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp, các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn.
Đẩy mạnh cơ cấu lại các ngành dịch vụ trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số. Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành du lịch, bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiện đại.
Ưu tiên chuyển đổi số trong một số ngành, lĩnh vực như y tế, giáo dục đào tạo, tài chính ngân hàng, nông nghiệp, giao thông vận tải và logistics, năng lượng, tài nguyên môi trường, sản xuất công nghiệp.
Phát triển một số doanh nghiệp viễn thông, công nghệ thông tin, doanh nghiệp số chủ lực thực hiện tốt vai trò dẫn dắt về hạ tầng công nghệ số, làm nền tảng cho nền kinh tế số, xã hội số. Phấn đấu đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới...
Bên cạnh đó, cần giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường. Tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực…
Đẩy nhanh tốc độ, nâng cao chất lượng đô thị hóa và kinh tế đô thị. Đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế.
Thành công hay thất bại có nguyên nhân là do chủ trương, thể chế
Về thực hiện Chiến lược, phải trả lời “câu hỏi chúng ta đang ở đâu”, trước hết, Thủ tướng nhấn mạnh kết quả đạt được hôm nay là quá trình phấn đấu của nhiều thế hệ, nhất là sau 35 năm đổi mới. Tuy nhiên, Thủ tướng cũng đặt vấn đề, nước ta có thể đứng thứ nhì ASEAN hay không về quy mô nền kinh tế và nhấn mạnh “khả năng này có thể đạt được nếu chúng ta quyết tâm” và “khát vọng phát triển đất nước phải đến từng người dân, đến cơ sở thì mới thành công”.
Về các giải pháp trọng tâm của Chiến lược, Thủ tướng cho rằng đây là những lĩnh vực cần tập trung chỉ đạo trong thời gian tới, bao quát những vấn đề trọng tâm nhất của đất nước, cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong triển khai. Cần có cơ chế bảo vệ những người dám nghĩ, dám làm, biết làm, không vụ lợi cá nhân, nếu không có cơ chế bảo vệ này thì khó có thể phát triển đất nước do bệnh máy móc.
Nhấn mạnh vai trò của thể chế, Thủ tướng nhắc lại lời của Bác Hồ trong “Bản yêu sách đối với chính quyền thực dân Pháp” năm 1919, trong 8 yêu sách thì yêu sách thứ 7, Bác viết: “Bảy xin Hiến pháp ban hành/Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Theo kinh nghiệm quốc tế, đây chính là yếu tố quan trọng nhất tạo động lực cho phát triển. Trong thành công hay thất bại có nguyên nhân là do chủ trương, thể chế.
Thủ tướng nhắc lại nguyên tắc 1 luật cố gắng có 2 nghị định là nhiều nhất, 1 nghị định có không quá 1 thông tư và ban hành 1 văn bản thì phải hủy văn bản cũ, “không để tình trạng một rừng văn bản khiến người dân, doanh nghiệp, cơ sở không biết vận dụng thế nào”.
Thủ tướng nêu rõ, coi đất đai là tài nguyên, nguồn tài sản lớn nhất, cần sớm được quản lý, sử dụng, huy động nguồn lực này hiệu quả, phục vụ phát triển kinh tế xã hội vì thất thoát đất đai của chúng ta sau 35 năm đổi mới và nhất là trong 10 năm trở lại đây còn lớn.
Thủ tướng cho rằng chúng ta có 4 cuộc cải cách lớn, đó là: Cải cách giáo dục, cải cách tiền lương, cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Thời gian tới, chúng ta tiếp tục chỉ đạo thực hiện 4 cuộc cải cách này đến thành công.
Cuối cùng, về khâu tổ chức thực hiện Chiến lược, Thủ tướng nêu rõ, đây là khâu quan trọng nhất. “Chủ trương 1, biện pháp 10, kế hoạch 20, đôn đốc thực hiện kiểm tra quyết liệt thì mới thành công. Nghị quyết có hay, chiến lược có tốt, có đúng mà tổ chức thực hiện kém, không quyết liệt, không linh hoạt điều hành thì Nghị quyết và chiến lược không đi vào cuộc sống. Chúng ta cần hiểu tổ chức thực hiện là cả hệ thống chính trị chứ không phải chỉ các cấp chính quyền", Thủ tướng nhấn mạnh.
Xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động
Về tổ chức thực hiện, Thủ tướng lưu ý các cấp, các ngành từ trung ương tới địa phương phải xây dựng chương trình, kết hoạch hành động cụ thể. Chính phủ ban hành chương trình, kế hoạch hành động của Chính phủ. Từng cấp, từng ngành, từng địa phương xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể theo quy định trong phạm vi quản lý, chức năng, nhiệm vụ được giao.
Đồng thời phải tập trung chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện quyết liệt, động bộ hiệu quả. Chú trọng tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, nút thắt với phương châm xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh.
Bên cạnh đó, có kế hoạch cụ thể về kiểm tra, giám sát, đánh giá thực hiện. Chú trọng xây dựng hệ thống thông tin, báo cáo, bảo đảm chất lượng, hiệu quả và kịp thời. Quy định rõ trách nhiệm cụ thể đối với cấp ủy đảng, chính quyền, đặc biệt là người đứng đầu...