Nguy cơ "lãi giả lỗ thật" vì chữ "chỉ"
Theo ông Nguyễn Văn Được, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Kế toán và Tư vấn Thuế Trọng Tín, Ủy viên Thường trực Hội Tư vấn Thuế Việt Nam, đa phần các doanh nghiệp hiện kinh doanh đa ngành nghề, rất ít doanh nghiệp chỉ sản xuất một lĩnh vực chịu thuế GTGT 5%.
Do đó, Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) sửa đổi đang được Quốc hội thảo luận để thông qua trong kỳ họp tới đây cần đảm bảo công bằng đối với các doanh nghiệp cùng ngành nghề sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế GTGT 5%...
Luật Thuế GTGT được ban hành lần đầu vào năm 1997, thay thế cho thuế doanh thu và đã trải qua nhiều sửa đổi quan trọng, đặc biệt vào các năm 2008, 2013, 2015 và 2016. Sau 15 năm kể từ sửa đổi năm 2008, cách thức thực hiện thuế GTGT đã có những thay đổi cơ bản, phản ánh sự phát triển trong quản lý hóa đơn của doanh nghiệp và sự biến chuyển trong tiêu dùng và cung ứng hàng hóa, dịch vụ nhờ tiến bộ công nghệ.
Tuy nhiên, luật này cũng bộc lộ nhiều bất cập, như phạm vi đối tượng không chịu thuế còn rộng, ảnh hưởng đến khả năng khấu trừ thuế đầu vào và tăng chi phí sản xuất cho doanh nghiệp. Cấu trúc các mức thuế suất cần được xem xét lại để phù hợp với Chiến lược cải cách và xu hướng chung.
Ngoài ra, nhiều vấn đề trong quản lý thuế GTGT, như khấu trừ thuế đầu vào mà không kê khai nộp thuế đầu ra cũng đã phát sinh, cùng với đó là các bất cập trong thực hiện hoàn thuế GTGT…
Liên quan đến nội dung sửa đổi quy định về hoàn thuế giá trị gia tăng tại dự án sửa đổi Luật Thuế GTGT được nêu trong Tờ trình của Bộ Tài chính gửi đến Chính phủ. Tại Khoản 3, Điều 15 của Dự thảo "Các trường hợp hoàn thuế"…Cơ sở kinh doanh "chỉ" sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế suất thuế giá trị gia tăng 5% nếu có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết từ ba trăm triệu đồng trở lên sau 12 tháng hoặc 04 quý thì được hoàn thuế GTGT".
Với quy định này, nếu doanh nghiệp chỉ có 01 loại thuế suất thuế GTGT là 5% mới được hoàn thuế, còn những doanh nghiệp có từ 02 loại thuế suất thuế GTGT trở lên không được hoàn thuế. Điều này không công bằng đối với các doanh nghiệp có từ 02 loại thuế suất thuế GTGT trở lên. Hệ quả, giá bán phân bón không giảm được bao nhiêu, không hỗ trợ được nhiều cho bà con nông dân, doanh nghiệp gặp tình trạng lãi giả lỗ thật, ngoài ra còn ảnh hưởng đến Ngân sách Nhà nước.
Trao đổi về vấn đề trên, ông Nguyễn Văn Được, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Kế toán và Tư vấn Thuế Trọng Tín, Ủy viên Thường trực Hội Tư vấn Thuế Việt Nam cho rằng, trong thực tế, doanh nghiệp được tự do kinh doanh nên đa phần doanh nghiệp kinh doanh đa ngành nghề, rất ít doanh nghiệp chỉ sản xuất một lĩnh vực chịu thuế GTGT 5%. Do đó, sửa Luật thuế GTGT cần đảm bảo công bằng đối với các doanh nghiệp cùng ngành nghề sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế GTGT 5%...
Ông Được lấy ví dụ, doanh nghiệp A là nhà sản xuất phân bón và kinh doanh hóa chất, nếu hàng hóa phân bón thuộc đối tượng chịu thuế GTGT 5% và hóa chất chịu thuế suất 10% doanh nghiệp A sẽ không được hoàn thuế. Trong khi đó, doanh nghiệp B chỉ sản xuất phân bón, không kinh doanh ngành nghề khác lại được hoàn thuế. Như vậy, sẽ không công bằng đối với các doanh nghiệp cùng ngành nghề.
Do đó, thuật ngữ "chỉ" sẽ làm giới hạn đối tượng được hoàn thuế và không đảm bảo công bằng đối với các doanh nghiệp cùng ngành nghề sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng 5%...
Phân tích sâu về điều này, ông Nguyễn Văn Được cho biết thêm, người nộp thuế phải hạch toán riêng hoạt động sản xuất kinh doanh của hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế GTGT 5% được hoàn thuế. Trường hợp không hạch toán riêng được số thuế GTGT của hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế GTGT 5% được hoàn thuế GTGT theo tỷ lệ doanh thu của hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế GTGT 5% trên tổng doanh thu trong kỳ nhưng tối đa không quá 5% trên tổng doanh thu của hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế GTGT 5%.
Quy định về cách tính số thuế hoàn thuế và khống chế mức thuế được hoàn nêu trên tương tự đối với trường hợp người nộp thuế có hoạt động xuất khẩu và hoạt động kinh doanh nội địa đã được áp dụng ổn định nhiều năm qua.
Do đó, ông Được đề nghị bỏ từ "chỉ" để cho phép hoàn thuế đối với đối tượng sản xuất kinh doanh hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng 5% cho đúng bản chất nhưng "phải bù trừ với các hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế khác" đồng thời, phải thực hiện "phân bổ" số thuế GTGT theo tỷ lệ chịu thuế 5% so với tổng hàng hóa dịch vụ của người nộp thuế.
"Chỉ cần bỏ từ "chỉ", tất cả các doanh nghiệp có 01 hay 02 loại thuế suất thuế GTGT trở lên đều được đối xử bình đẳng. Điều này giúp doanh nghiệp có điều kiện và động lực để liên tục đầu tư phát triển, đổi mới, đa dạng sản phẩm, có thêm nguồn lực đem lại lợi ích cho nền kinh tế", ông Nguyễn Văn Được nhấn mạnh.
Sẽ kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khoản 3, Điều 15 Luật Thuế GTGT
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Văn Phụng, nguyên Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn (Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính) chuyên gia cao cấp về thuế phân tích, theo quy định này, có thể hiểu là doanh nghiệp chỉ có 01 loại thuế suất thuế GTGT là 5% mới được hoàn thuế, còn những doanh nghiệp có từ 02 loại thuế suất thuế GTGT trở lên không được hoàn thuế. Điều này là không công bằng đối với các doanh nghiệp có từ 02 loại thuế suất thuế GTGT trở lên.
Là một chuyên gia về thuế, ông Phụng cho rằng, trên thực tế, doanh nghiệp được tự do kinh doanh nên đa phần doanh nghiệp kinh doanh đa ngành nghề, rất ít doanh nghiệp chỉ sản xuất một lĩnh vực chịu thuế GTGT 5%. Do đó, sửa Luật thuế GTGT cần đảm bảo công bằng đối với các doanh nghiệp cùng ngành nghề sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế GTGT 5%...
Đơn cử, doanh nghiệp A là nhà sản xuất phân bón và kinh doanh hóa chất, nếu hàng hóa phân bón thuộc đối tượng chịu thuế GTGT 5% và hóa chất chịu thuế suất 10% doanh nghiệp A sẽ không được hoàn thuế. Trong khi đó, doanh nghiệp B chỉ sản xuất phân bón, không kinh doanh ngành nghề khác lại được hoàn thuế. Như vậy, sẽ không công bằng đối với các doanh nghiệp cùng ngành nghề.
"Tới đây tôi cũng sẽ có văn bản kiến nghị lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội về vấn đề này, bằng tâm huyết của người cả đời làm thuế", ông Nguyễn Văn Phụng nhấn mạnh.
Từ câu chuyện Khoản 3, Điều 15 Luật Thuế GTGT (sửa đổi) quay trở lại trước năm 2015, do khủng hoàng kinh tế toàn cầu, doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước và doanh nghiệp ngành nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn.
Nhằm tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp thuộc lĩnh vực nông nghiệp và phân bón trong nước có không gian phát triển, giảm bớt kho khăn, Chính phủ cùng các Bộ, Ngành, Hiệp hội và doanh nghiệp thống nhất đề xuất chỉnh sửa, bổ sung Luật Thuế GTGT, tiền đề để Luật Thuế số 71 ra đời sau này.
Theo đó, thuế suất GTGT mặt hàng phân bón và một số máy móc, sản phẩm nông nghiệp đang chịu mức thuế suất GTGT 5% được đề nghị chuyển sang không chịu thuế (đúng ra là phải chuyển sang thuế GTGT 0%).
Nhầm lẫn tai hại mà đến giờ không rõ do "lỗi" ở đâu và từ cơ quan nào mà sau khi Luật Thuế số 71 có hiệu lực từ 1/1/2015, các doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước "than khóc" ròng rã gần 10 năm trời chỉ với một mong muốn là xin được quay trở lại mức thuế GTGT 5% như trước 2015.
Nay, "chi tiết" Khoản 3, Điều 15 cũng đang nguy cơ rất giống câu chuyện thuế suất GTGT phân bón 0% hay không chịu thuế như câu chuyện Luật Thuế số 71 năm 2015 gần 10 năm về trước, đòi hỏi các bên cầm cân nảy mực phải hết sức cân nhắc và tỉnh táo, tránh ban hành rồi lại gian nan, trường kỳ kiến nghị sửa.
Bên cạnh đó, ngoài mức thuế GTGT 0% và 5%, các cơ quan chức năng cũng có thể nghĩ tới các mức thuế GTGT với mặt hàng phân bón ưu việt hơn ở mức 1%, 2%, 3% hoặc 4%. Tuy nhiên, khi trao đổi với một số chuyên gia về thuế, mức thuế suất GTGT từ 1- 4% hiện chưa có tiền lệ với cả Việt Nam cũng như trên thế giới, nên mốc 0% hoặc 5% vẫn là con số gần nhất và hài hòa nhất với lợi ích các bên.
Chuyên gia thuế Nguyễn Văn Được đề nghị sửa Khoản 3 Điều 15 Luật Thuế GTGT sửa đổi như sau:
Cơ sở kinh doanh sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế suất thuế giá trị gia tăng 5% (trừ hoạt động thanh lý tài sản) nếu có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết sau khi bù trừ với số thuế giá trị gia tăng của hoạt động kinh doanh hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế Giá trị gia tăng khác từ ba trăm triệu đồng trở lên sau 12 tháng liên tục hoặc 04 quý liên tục được hoàn thuế giá trị gia tăng.
Người nộp thuế phải hạch toán riêng hoạt động sản xuất kinh doanh của hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng 5% được hoàn thuế. Trường hợp không hạch toán riêng được số thuế giá trị gia tăng của hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng 5% được hoàn thuế giá trị gia tăng theo tỷ lệ doanh thu của hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng 5% trên tổng doanh thu trong kỳ nhưng tối đa không quá 5% trên tổng doanh thu của hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng 5%.