Ông Nguyễn Văn Công, Giám đốc Sở NN-PTNT Quảng Ninh, trả lời phỏng vấn Báo NNVN.
- Quảng Ninh là tỉnh công nghiệp, dịch vụ. Nhưng nhiều chính sách thu hút đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao được triển khai và đạt hiệu quả. Ông cho biết Sở đã tham mưu với lãnh đạo tỉnh đề ra chính sách như thế nào?
Những năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã quan tâm chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện nhiều mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao, từng bước nâng cao hiệu quả, giá trị canh tác.
Tỉnh ủy Quảng Ninh đã xác định những lợi thế riêng của ngành nông nghiệp tỉnh và có những nghị quyết chuyên đề, khai thác tiềm năng lợi thế của tỉnh, phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung, ứng dụng công nghệ cao như: Nghị quyết số 13-NQ/TU ngày 6/5/2014 của BCH Đảng bộ tỉnh về phát triển kinh tế thủy sản Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Nghị quyết 19-NQ/TU ngày 28/11/2019 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về phát triển lâm nghiệp bền vững tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030; Nghị Quyết 07-NQ/TU ngày 13/3/2017 của BCH Đảng bộ tỉnh về phát triển KH&CN tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020…
Tỉnh Quảng Ninh xác định dành đến 6-7% chi ngân sách thường xuyên, tương đương 600-800 tỷ đồng mỗi năm cho KHCN, trong đó có nông nghiệp. Chính sách khuyến khích đầu tư liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông với cơ chế hỗ trợ đến 70% lãi suất đầu tư sản xuất trong 5-8 năm; khuyến khích phát triển nông nghiệp hữu cơ; hỗ trợ hạ tầng đến chân hàng rào; hỗ trợ về mặt bằng, lãi suất, thủ tục hành chính… tỉnh Quảng Ninh triển khai thời gian qua tạo nên làn gió mới cho doanh nghiệp NNCNC.
- Làm thế nào để các chính sách được triển khai và đi vào cuộc sống, thưa ông?
Trên cơ sở các chính sách, ngành đã tham mưu xây dựng, phát triển sản phẩm chủ lực có thế mạnh, lợi thế của địa phương gắn với 17 vùng sản xuất hàng hóa tập trung với diện tích gần 5.000ha, bao gồm: Vùng trồng lúa chất lượng cao ở TX Đông Triều; vùng trồng rau an toàn ở TX Quảng Yên; vùng trồng hoa tại TP Hạ Long; vùng chăn nuôi tôm ở Đầm Hà, Móng Cái… làm cơ sở xây dựng các thương hiệu sản phẩm và tạo nguyên liệu cho việc sơ chế, chế biến, đưa nông sản đến với người tiêu dùng thông qua Chương trình mỗi xã phường một sản phẩm, tạo tiền đề thực tiễn để nhân rộng trên quy mô toàn quốc.
Quảng Ninh đã lập 3 Đề án thành lập khu nông nghiệp công nghệ cao tại Đông Triều, Khu nông nghiệp công nghệ cao cấp tỉnh lĩnh vực thủy sản tại Đầm Hà và Khu nông nghiệp công nghệ cao Chăn nuôi bò sữa tập trung và liên kết với người dân tại huyện Đầm Hà, báo cáo Bộ Nông nghiệp và PTNT phê duyệt, thành lập.
-Nông nghiệp thông minh là cái mới, trong đó Quảng Ninh không phải là địa phương có thế mạnh về lĩnh vực này nếu so sánh với một số địa phương khác. Như vậy, trong quá trình thu hút doanh nghiệp đầu tư có những vướng mắc gì? Và tỉnh Quảng Ninh giải quyết thế nào?
Quảng Ninh do đặc điểm về địa hình phức tạp, diện tích đất canh tác manh mún gây khó khăn trong việc đầu tư, phát triển sản xuất nông nghiệp CNC, nông nghiệp thông minh. Tuy nhiên, Quảng Ninh cũng có nhiều điều kiện để thúc đẩy phát triển nông nghiệp thông minh, nông nghiệp công nghệ cao do Quảng Ninh là tỉnh công nghiệp, dịch vụ thu nhập bình quân đầu người năm 2019 đạt khoảng 6.135 USD, cao gấp đôi bình quân chung cả nước, hàng năm đón trên 14 triệu lượt khách du lịch... do vậy nông nghiệp thông minh, công nghệ cao hướng tới kiểm soát an toàn thực phẩm, chất lượng ổn định có một thị trường tiêu thụ tại chỗ rộng lớn.
Mặt khác, Quảng Ninh đã và đang là cầu nối, là “cửa ngõ” trong hoạt động xuất nhập hàng hóa giữa Việt Nam, ASEAN và Trung Quốc nên có cơ hội giao thương kết nối với thị trường tiêu thụ nông sản lớn là Trung Quốc.
Việc phát triển đồng bộ các lĩnh vực hạ tầng giao thông, hạ tầng xã hội và các khu công nghiệp, các lĩnh vực công nghiệp phụ trợ cũng góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai phát triển nông nghiệp thông minh, nông nghiệp công nghệ cao. Việc kết hợp du lịch trải nghiệm và sản xuất nông nghiệp thông minh cũng là hướng đi mới hứa hẹn những kết quả tốt.
Ngoài ra, do tính đa dạng về địa hình, Quảng Ninh được ví như Việt Nam thu nhỏ với nhiều tiểu vùng khí hậu, địa hình khác nhau nên có được nền tảng tạo ra những sản phẩm nông sản độc đáo với chất lượng và giá trị vượt trội. Việc triển khai thành công chương trình mỗi xã phường một sản phẩm (OCOP) tại Quảng Ninh thời gian qua đã minh chứng rõ điều này.
Thực tế, tại Quảng Ninh, đã có nhiều doanh nghiệp đã bước đầu tiếp cận với các giải pháp công nghệ và quản trị doanh nghiệp thông minh. Đây là cơ sở quan trọng để Quảng Ninh thực hiện thành công trong phát triển nông nghiệp 4.0 những năm tới.
Một số nhóm giải pháp
Tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ của tỉnh, thời gian tới Quảng Ninh có những giải pháp, nhóm giải pháp như sau:
Tổ chức sắp xếp ổn định và nâng cấp các cơ sở sản xuất, đặc biệt là các cơ sở chế biến hiện có trên địa bàn tỉnh. Xây dựng mới nhà máy chế biến, bảo quản áp dụng công nghệ cao ở huyện Cô Tô, Vân Đồn, Móng Cái. Đến năm 2025 có 100% cơ sở đạt tiêu chuẩn đảm bảo ATTP, đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu.
Xây dựng kế hoạch “Phân phối sản phẩm nông nghiệp tại kho (Food capacity)”. Trong đó, phát triển hệ thống kho lạnh thương mại (kho lạnh không nằm trong dây chuyền sản xuất), hỗ trợ chi phí bảo quản sản phẩm thủy sản tại các kho đông, kho mát tại một số thị trường chủ lực. Tổ chức thí điểm thuê kho lạnh để bảo quản và phân phối sản phẩm thủy sản tại 3 thị trường lớn gồm: Móng Cái, Hạ Long và Hà Nội.
Phát triển ổn định thị trường nguyên liệu cho các cơ sở chế biến, chú trọng nguồn nguyên liệu cho cơ sở chế biến thủy sản. Đẩy mạnh việc liên kết giữa các nhà máy chế biến với cơ sở sản xuất và cung cấp nguyên liệu thuỷ sản (vùng nuôi trồng thủy sản và khai thác thủy sản) trên cơ sở chuỗi giá trị và quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm theo hệ thống. Tất cả các nhà máy chế biến đều xây dựng được các mối liên kết trực tiếp với vùng sản xuất nguyên liệu để chủ động sản xuất; tăng cường công tác áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.