Cái giá của việc thay thế rừng bằng cây độc canh: Từ lợi ích ngắn hạn đến hậu quả dài lâu

Tô Văn Trường - Thứ Sáu, 04/10/2024 , 06:37 (GMT+7)

Trong nhiều năm qua, tình trạng phá rừng tự nhiên đã trở thành một trong những vấn đề nhức nhối trong việc phát triển kinh tế bền vững.

Nhiều vùng đất xanh bị xóa sổ để nhường chỗ cho những “đồn điền” năng suất cao, và mục đích phát triển kinh tế nhưng ít ai nhận ra rằng sự thay thế này không chỉ đơn thuần là chuyển đổi mô hình sản xuất. Đấy là chưa kể những vụ phá rừng tự nhiên, do di dân tự phát.

Hậu quả của siêu bão Yagi, đặc biệt là lũ, lở đất gây nên cái chết rất thương tâm của nhiều người dân, đặc biệt ở Làng Nủ làm chết 43 người và 52 người mất tích đã được các nhà khoa học công bố đánh giá trong hội thảo khoa học "Thảm hoạ Làng Nủ - nguyên nhân và giải pháp phòng tránh" diễn ra ngày 2/10/2024, do Trường Đại học Khoa học Tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức.

Theo mô phỏng, tính toán của các nhà khoa học, khối lượng đất đá và nước khổng lồ lên tới 1,6 triệu m3 đã ập xuống ngôi làng nhỏ với 37 hộ dân. Qua sử dụng mô hình 3D kết hợp dữ liệu thực địa và ảnh vệ tinh để tính toán, nhóm nghiên cứu xác định, dòng lũ chỉ mất khoảng 5-6 phút để từ đỉnh núi tràn xuống ngôi làng.

Tại hội thảo, GS TS Đỗ Minh Đức và nhóm nghiên cứu bộ môn Địa kỹ thuật và Phát triển hạ tầng, Khoa Địa chất trường Đại học Khoa học Tự nhiên, cho biết, ở các tỉnh miền núi Việt Nam, những khu vực có điều kiện địa hình, địa chất và đặc điểm phân bố dân cư tương tự như Làng Nủ là không ít.

Nhóm nghiên cứu đã đưa ra một số đề xuất về quy trình xây dựng các công trình dân dụng, giao thông, thủy lợi, thủy điện, hệ thống quan trắc chuyên sâu, cảnh báo sớm… trong vùng có rủi ro trượt lở.

Ngoài các nguyên nhân kể trên, theo thiển nghĩ của tôi, cần nhấn mạnh nguyên nhân quan trọng là hậu quả phá rừng tự nhiên ở nước ta và cần xem xét lại việc trồng cây kinh tế độc canh trên diện tích rừng cũ mà vẫn gọi đó là “phục hồi rừng” và gộp vào thống kê diện tích rừng.

Việc phá rừng tự nhiên để trồng các cây như keo, cà phê, hay các loại cây khác thường được gọi là "phủ xanh đất đồi trọc", nhưng những loại cây này không thể thay thế hoàn toàn chức năng của rừng tự nhiên trong việc phòng chống lũ lụt và lở đất vì một số lý do sau:

Độ đa dạng sinh học: Rừng tự nhiên có đa dạng sinh học rất cao, cung cấp môi trường sống cho nhiều loài động, thực vật. Điều này giúp duy trì hệ sinh thái ổn định và khả năng phục hồi sau thiên tai. Trong khi đó, các loại cây trồng đơn điệu như keo hay cà phê không cung cấp được tính đa dạng này.

Cấu trúc rễ: Rễ của các cây rừng tự nhiên thường sâu và phân nhánh hơn, giúp giữ đất chặt chẽ hơn, ngăn chặn xói mòn và lở đất. Rễ của cây keo hay cà phê có cấu trúc khác, không đủ mạnh để giữ đất trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt.

Khả năng giữ nước: Rừng tự nhiên có khả năng giữ nước và điều hòa dòng chảy rất tốt. Các cây rừng với tán lá rộng giúp hấp thụ mưa và giảm tốc độ dòng chảy của nước, từ đó giảm thiểu nguy cơ lũ lụt. Các loại cây trồng thương mại không có khả năng này tương tự.

Khả năng làm thoát nước: Rừng tự nhiên có khả năng làm thoát nước hiệu quả, giúp hạn chế tình trạng ngập úng. Cây trồng thương mại thường không đạt được mức độ này.

Tác động đến khí hậu và đất đai: Rừng tự nhiên góp phần điều hòa khí hậu khu vực và cải thiện chất lượng đất. Việc chuyển đổi sang trồng cây thương mại có thể dẫn đến tình trạng thoái hóa đất và thay đổi khí hậu địa phương.

Như vậy, mặc dù trồng cây có thể giúp che phủ diện tích rừng, nhưng những cây này không thể thay thế các chức năng thiết yếu mà rừng tự nhiên cung cấp trong việc bảo vệ môi trường và giảm thiểu thiên tai.

Các nhà nghiên cứu ở hai đại học Vương quốc Anh là Edinburgh và Leeds từng tuyên bố, việc coi trồng độc canh thương mại rộng lớn là phục hồi rừng thật ra là "một vụ bê bối của thế kỷ 21". Nói cách khác, sửa chữa hệ sinh thái bằng đồn điền là sai lầm tệ hại!

Trong hệ thống độc canh này, mặt đất được phát quang rồi trồng duy nhất một loại cây mà không còn cây leo, cây bụi, cây cộng sinh và ký sinh, không còn động vật rừng. Cứ như thể một người dọn dẹp chuyên nghiệp đã được đưa vào khu rừng nhiệt đới. Tiếng chim hót và tiếng ếch nhái vắng lặng, những mái vòm cây lá lộn xộn được dọn sạch bong. Nơi từng là những đám dây leo và cây non hỗn độn nằm chen chúc dưới những dưới tán cây râm mát, giờ được thay thế bằng những cây có cùng chiều cao đứng ngăn nắp và xếp thành từng hàng ngay ngắn. Nước mưa cứ thế mà chảy thẳng tuột từ trên xuống dưới chứ không còn được ngăn chặn, thẩm thấu như khi còn có rừng thiên nhiên.

Sau một thời gian ngắn khi lớp đất mặt chưa kịp tái sinh, cây trồng được đốn hàng loạt để thu hoạch gỗ, rồi mặt đất được phát quang và trồng lại duy nhất một loại cây. Chu kỳ cứ thế mà tiếp diễn, hệ sinh thái không duy trì được lâu dài như rừng thiên nhiên. Đó là cách làm đồn điền, không phải là “phục hồi rừng”.

Các nhà nghiên cứu về các cam kết phục hồi của Chính phủ tiết lộ rằng gần một nửa số rừng mới được hứa hẹn sẽ là rừng, thật ra lại được trồng độc canh các loại cây phát triển nhanh và cho lợi ích kinh tế trước mắt thay vì bắt đầu phục hồi các hệ sinh thái. Chẳng chóng thì chầy, thảm họa xảy ra do sạt lở.

Một ví dụ cụ thể: sạt lở trên đèo Bảo Lộc (tỉnh Lâm Đồng) nằm trọn ở khoảnh đồi trồng cây sầu riêng. Vụ sạt lở làm vùi lấp 1 trụ sở trạm cảnh sát giao thông nằm giữa đèo Bảo Lộc, vùi lấp 4 người (gồm 3 chiến sỹ công an và 1 người dân), hư hỏng 3 xe ô tô; chia cắt hoàn toàn giao thông qua đèo Bảo Lộc. Sự việc đau buồn này lại thêm một lần nữa nhắc nhở chúng ta về tác dụng quan trọng của rừng tự nhiên đối với việc ngăn chặn thiên tai như sạt lở đất, lũ quét...

Toàn cảnh vụ sạt lở ở đèo Bảo Lộc nhìn từ trên cao. Khu vực sạt lở không có cây rừng mà được trồng sầu riêng. Ảnh: Hải Long/Dân trí.

Một ví dụ khác là cơn đại hồng thủy sông Chảy “nuốt chửng” nhiều nhà dân thôn Kho Vàng. Đoạn đường chính đi vào thôn cũng bị nước lũ và sạt lở đất phá hủy, nhiều ngôi nhà bị cuốn hoàn toàn. Có thể nhận ra, thảm thực vật là thuần một loại cây được trồng theo hàng lối, chứ cây không cao thấp lộn xộn và đa dạng như trong rừng thiên nhiên. Từng thảm thực vật mênh mông không còn thấy hình ảnh rừng thiên nhiên mà chỉ là cây trồng. Đó là quả bom nổ chậm, và bây giờ đã phát nổ.

Ở những nơi khác, người thường khó nhận ra sự tương quan giữa cây độc canh và thảm họa sạt lở, nhưng các nhà nghiên cứu vẫn có thể tìm thấy mối tương quan nguyên nhân - hậu quả.

Đoạn đường chính đi vào thôn Kho Vàng cũng bị nước lũ và sạt lở đất phá hủy, nhiều ngôi nhà bị cuốn hoàn toàn. Ảnh: Tuấn Minh.

Theo một nghiên cứu về rừng và sạt lở đất ở châu Á được đăng trên Tạp chí Recoftc, cây rừng đóng vai trò quan trọng trong việc giảm nguy cơ sạt lở đất thông qua các cơ chế khác nhau. Cụ thể, rễ cây củng cố các lớp đất, neo đất vào đá gốc tạo thành các trụ, chống lại sự dịch chuyển của đất. Cây xanh cũng làm giảm nguy cơ sạt lở đất bằng cách ngăn chặn, hạ thấp độ ẩm của đất; thoát hơi nước nhanh giúp giảm xói mòn và đóng vai trò như một rào cản hiệu quả chống lại đá, mảnh vụn và đất trượt.

Nhưng với chu kỳ trồng hàng loạt rồi đốn hàng loạt cây độc canh, những vai trò hữu ích nêu trên không còn được duy trì. Các nhà nghiên cứu từng vạch rõ quá trình chuyển đổi từ cây rừng sang cây trồng làm giảm vĩnh viễn độ sâu và sức mạnh của rễ, do đó làm tăng nguy cơ sạt lở. Cây độc canh tạo lợi ích kinh tế ngắn hạn nhưng gây thảm họa lâu dài cho tính mạng con người và tài sản tích cóp từ cả đời làm lụng.

Bên cạnh đó, Nam Á, Đông Á và Đông Nam Á phải đối mặt với biến đổi khí hậu cực đoan, trong đó cường độ bão nhiệt đới tăng 10-20%. Một nghiên cứu của The center for People and Forests cho thấy, lượng mưa dự kiến sẽ tăng trên hầu hết các khu vực châu Á, đặc biệt là trong mùa đông ở bán cầu bắc. GS.TS Sinh học Thomas Höfer, Đại học Heidelberg (Đức) cảnh báo, sự gia tăng các hiện tượng mưa cực đoan sẽ làm tăng tần suất sạt lở đất ở các khu vực dốc, trong khi lốc xoáy hoặc bão có thể gây ra sạt lở đất bằng cách làm đổ cây cối khiến lộ khoảng đất trống, lượng nước xâm nhập vào đất làm sụt dốc gây sạt lở.

Đảng và Nhà nước ta từng nêu khẩu hiệu “phát triển bền vững” và “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Rừng độc canh là cách làm ăn xổi ở thì chứ không phải bền vững. Dù nó tạo lợi ích kinh tế trước mắt cho nhiều người nhưng cũng bỏ lại phía sau một số người phải chịu thiên tai chồng nhân tai bằng mạng sống và cả nhà cửa. Đối với thảm họa như thế thì không lợi ích kinh tế nào bù đắp được.

Các nhà khoa học lâm nghiệp khuyến khích nên tập trung trồng cây gỗ và cây bụi ở những nơi có độ dốc rủi ro cao. Trồng trọt trên sườn dốc nơi địa chất không ổn định gây mất an toàn, phải xây dựng thêm các biện pháp kỹ thuật nhằm giảm sạt lở đất như đào rãnh thoát nước, trồng xen canh các cây có độ bám rễ tốt, độ phủ cao nhằm tăng tính ổn định của đất. Và cần thiết phải duy trì hệ sinh thái mới này được bền vững chứ không phải đi qua chu kỳ trồng hàng loạt, chặt hàng loạt rồi lại trồng hàng loạt.

Nói tóm lại: Cần rà soát toàn diện và cải thiện việc phục hồi rừng cho phát triển bền vững so với việc trồng cây độc canh cho lợi ích kinh tế trước mắt. Điều này không có nghĩa phải xóa bỏ hoàn toàn các diện tích cây độc canh, nhưng phải duy trì hài hòa giữa lợi ích cho thế hệ này và cho những thế hệ mai sau và phải hiểu giá trị của rừng tự nhiên đối với đời sống của con người và bảo vệ môi trường thì không loại cây trồng nào khác có thể thay thế được.

Tô Văn Trường
Tin khác
5 gói giải pháp gỡ 3 nhóm rào cản phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn
5 gói giải pháp gỡ 3 nhóm rào cản phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn

Chia sẻ của Tiến sĩ Hoàng Sỹ Thính, Khoa du lịch và Ngoại ngữ, Học viện Nông nghiệp Việt Nam về câu chuyện tri thức hóa nông dân và du lịch nông nghiệp, nông thôn.

Xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã quay trở lại quỹ đạo thông thường
Xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã quay trở lại quỹ đạo thông thường

Sau mấy năm không ổn định do ảnh hưởng của Covid-19, xung đột, lạm phát… xuất khẩu thủy sản Việt Nam đang trở lại quỹ đạo thông thường.

Chọn con đường nông nghiệp sạch: Những 'ông mai, bà mối' giúp nông dân thay đổi tư duy
Chọn con đường nông nghiệp sạch: Những 'ông mai, bà mối' giúp nông dân thay đổi tư duy

Sau khi liên kết với hợp tác xã, nhiều nông dân đã thay đổi tư duy, chuyển từ canh tác hóa học sang hữu cơ, mang lại nhiều lợi ích cho bản thân và môi trường.

Chọn con đường nông nghiệp sạch: Khát vọng Bechamp
Chọn con đường nông nghiệp sạch: Khát vọng Bechamp

Trong số những người đã chọn con đường này, trí thức có, nông dân thứ thiệt cũng có, trình độ, kiến thức khác nhau, nhưng có cùng quan điểm là quyết tâm làm nông nghiệp sạch, dù biết nhiều khó khăn.

Việt Nam có một bể chứa carbon khổng lồ dưới đại dương
Việt Nam có một bể chứa carbon khổng lồ dưới đại dương

So với cây rừng, khả năng hấp thụ carbon của rong biển cao hơn nhiều lần bởi gần như toàn bộ năng lượng mặt trời được chúng lưu trữ dưới dạng sinh khối.

Nhà văn Nguyễn Khắc Trường suốt đời đau đáu cuộc sống nông thôn
Nhà văn Nguyễn Khắc Trường suốt đời đau đáu cuộc sống nông thôn

Nhà văn Nguyễn Khắc Trường, tác giả tiểu thuyết 'Mảnh đất lắm người nhiều ma' nổi tiếng, vừa qua đời trưa 2/10 tại nhà riêng ở Hà Nội, hưởng thọ 79 tuổi.

Câu chuyện thứ hai: Khởi nghiệp trong một trường Đại học Bỉ
Câu chuyện thứ hai: Khởi nghiệp trong một trường Đại học Bỉ

Thường con người hay rơi vào cái bẫy, luôn nghĩ rằng sản phẩm mình làm ra đều ngon nhất, đẹp nhất, tốt nhất. Chúng ta quên rằng, đôi khi người tiêu dùng không nghĩ như vậy hoặc đánh giá ngược lại.

Những cách đơn giản để giảm phát thải
Những cách đơn giản để giảm phát thải

Thay vì để phế phụ phẩm nông nghiệp phát thải tự nhiên vào môi trường, người dân có thể tiến hành xử lý nhiệt để chuyển hóa, từ đó giảm tác động tới môi trường.

Độc đáo kiểu tiêu thụ nông sản qua mô hình Cây dừa nhà tôi
Độc đáo kiểu tiêu thụ nông sản qua mô hình Cây dừa nhà tôi

Người tiêu thụ mua dừa tại cây, mua trọn cả năm, dừa được giao tại nhà. Mô hình góp phần thay đổi tư duy sản xuất, kinh doanh của người trồng dừa.

Hiểu hơn về khí nhà kính, thấy thách thức Net Zero của Việt Nam không nhỏ
Hiểu hơn về khí nhà kính, thấy thách thức Net Zero của Việt Nam không nhỏ1

Bình quân phát thải khí nhà kính tại Việt Nam tương đương một số nước Đông Nam Á nhưng nếu tính trên quy mô GDP, thách thức gặp phải lớn hơn khá nhiều.

‘Ký sự người nuôi chó’ có nhiều chi tiết thú vị
‘Ký sự người nuôi chó’ có nhiều chi tiết thú vị

‘Ký sự người nuôi chó’ của tác giả Hoàng Hải Vân, vừa được Nhà xuất bản Lao Động và Chibooks ấn hành, giúp công chúng hiểu thêm về một loài vật thân quen.