Chữ Quốc ngữ, đôi điều cần minh định

Võ Xuân Quế - Thứ Hai, 25/12/2023 , 06:30 (GMT+7)

Trong lịch sử văn tự nước nhà, người Việt đã từng dùng bốn loại chữ viết khác nhau là 'chữ Hán, chữ Nôm, chữ Pháp và chữ Quốc ngữ'.

"Quốc ngữ" nghĩa là “chữ của tiếng nói nước nhà” trước kia cũng từng được dùng để chỉ chữ Nôm và còn được gọi là “Quốc âm”. Nhưng sau khi thứ chữ viết dùng các chữ cái Roman để ghi âm tiếng Việt ra đời và được sử dụng, cách gọi Quốc Ngữ chỉ được dùng để chỉ loại chữ viết này.

Quá trình hình thành chữ Quốc ngữ đã kéo dài hơn ba trăm năm nhưng vẫn chưa có sự thống nhất.

Kể từ khi xuất hiện lần đầu tiên trên tờ Gia Định báo năm 1867 đến nay, cụm từ chữ Quốc Ngữ (khi đó được viết là “chữ quốc ngữ”) đã chính thức được dùng trên văn bản viết ngót nghét một thế kỷ rưỡi. Thế nhưng, từ đó đến nay cách viết tên gọi của loại chữ viết này vẫn chưa có sự nhất quán trên các văn bản, giữa các người viết với ba hình thức khác nhau là: “quốc ngữ”, “Quốc ngữ” và “Quốc Ngữ”.

Thậm chí ngay cả với cùng một người viết, trong cùng một văn bản cũng có sự không thống nhất, chẳng hạn: “Việt Nam đã có chữ Nôm, nhưng hệ chữ Quốc Ngữ trong thời đại mới đã thể hiện rõ tính ưu việt của nó; hệ quả tất yếu là chữ Hán và chữ Nôm rút khỏi vũ đài lịch sử, nhường chỗ cho chữ Quốc ngữ.”

Ngoài ba cách viết khác nhau đó, chữ viết này còn được gọi là “quốc văn”, như Tản Đà từng viết trong lời quảng cáo cho cuốn sách “Đại-học” dịch ra chữ Quốc Ngữ: “Trong sách này, về sự in, mặt trang có chia làm ba khoảng. 1. Khoảng dữa là phần rộng hơn, in chính văn, chương cú và tập chú đã theo văn thể mà dịch ra quốc-văn.”

Và cũng còn được gọi là “chữ phổ thông”, như trong Quyết định số 53-CP ngày 22-2-1980 về chủ trương đối với chữ viết của các dân tộc thiểu số “…Tiếng và chữ phổ thông là ngôn ngữ chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam (…). Để việc dạy và học chữ dân tộc và chữ phổ thông được dễ dàng, nhanh chóng, thuận tiện cho cả đồng bào các dân tộc thiểu số và đồng bào người Kinh muốn học chữ dân tộc, cần xây dựng mới hoặc cải tiến chữ viết dân tộc theo bộ vần, gần gũi với bộ vần chữ phổ thông.”

Hay “quốc ngữ Latinh” như cách dùng của Cao Tự Thanh: “Sau khi người Pháp bắt đầu đô hộ Việt Nam và dùng chữ quốc ngữ làm chữ viết chính thức, những khác biệt giữa chữ quốc ngữ ghi âm bằng mẫu tự phương Tây của Dòng Tên với chữ quốc ngữ ghi âm bằng mẫu tự Latin của Dòng Sai đã được giải quyết một cách êm thấm mà dứt khoát, nên chữ Việt Nam hiện đang dùng có thể gọi là chữ quốc ngữ Latin.” để phân biệt với “Quốc ngữ nôm” theo cách gọi của Tạ Chí Đại Trường: “Chỉ đến khi loạn lạc tiếp theo làm giảm bớt áp lực kinh sách, đồng thời với đường tiến thân bằng khoa cử còn là lối duy nhất dẫn đến quyền tước, sang giàu, lúc đó chữ quốc ngữ nôm mới phát triển theo với đà tiến lên đông đúc của đám người ít học (nho).

Vậy nên viết “Quốc ngữ”, “quốc ngữ” hay “Quốc Ngữ” để chỉ chữ Quốc Ngữ?

Cho đến nay, chưa có một quy định viết hoa chính thức nào của nhà nước đề cập đến việc viết hoa cụm từ Quốc Ngữ trong chữ Quốc Ngữ. Song theo một số quy định viết hoa đã được ban hành, như “Viết hoa trong văn bản hành chính” (kèm theo Thông tư số 01/2011/TT-BNV ngày 19  tháng 01 năm 2011 của Bộ Nội vụ), hay gần đây nhất là Quy định số 4148-QĐ/VPTW ngày 27/9/2019 của Văn phòng Trung ương Đảng, các tên riêng (tên người, tên địa lý, tên cơ quan, tổ chức, tên các ngày lễ, ngày kỷ niệm, tên các loại văn bản, tên các tác phẩm sách báo, tạp chí, tên các năm âm lịch, ngày tết) đều viết hoa chữ cái đầu của mỗi âm tiết.  

Chữ “Quốc Ngữ”, như trên đã nói, là tên gọi của một loại hình chữ viết dùng các chữ cái Roman (hay La Mã, gồm chữ viết các ngôn ngữ: Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Italia và Romania) để ghi âm tiếng Việt. Vì vậy nó là một tên riêng gồm hai âm tiết, có giá trị khu biệt với những tên riêng chỉ các loại chữ viết khác, như: chữ Nôm, chữ Nho (Việt Nam), chữ Hán (Trung Quốc), chữ Hangul (Hàn Quốc), chữ Romaji (Nhật Bản)… Mặt khác, chữ Quốc Ngữ cũng có giá trị định danh như những tên riêng ghép khác, kiểu như: sông Hồng Hà, dãy Trường Sơn, Bắc Bộ… Vì thế chữ cái đầu của cả hai âm tiết “Quốc” và “Ngữ” trong chữ “Quốc Ngữ” đều cần phải được viết hoa.

Việc viết hoa hai chữ cái đầu của cả hai âm tiết “Quốc” và “Ngữ” khi viết về chữ Quốc Ngữ đã được nhà ngôn ngữ học Mỹ, John de Francis triệt để tuân thủ trong cuốn sách của ông “Colonialism and Language Policy in Vietnam” (Chủ nghĩa thực dân và chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam), xuất bản năm 1977. Trong tác phẩm này cũng như trong một số bài viết khác sau đó, khi đề cập đến chữ Quốc Ngữ, ông đều dùng “Quoc Ngu”.

Chữ Quốc Ngữ là chữ viết Latinh (La Tinh) hóa hay Roman/La Mã hóa?

Bìa sách Lịch sử chữ Quốc ngữ của Đỗ Quang Chính.

Các công trình khảo cứu về sự ra đời và phát triển của chữ Quốc Ngữ từ trước đến nay đã chỉ rõ bảng chữ cái của chữ Quốc Ngữ không phải được xây dựng chỉ dựa trên bảng chữ cái của chữ viết La Tinh mà còn lấy từ một số chữ viết khác của các ngôn ngữ Roman (hay La Mã) và cả chữ viết tiếng Hy Lạp. Điều này đã được nhà ngôn ngữ – dân tộc học Pháp André-Georges Haudricourt nêu ra trong công trình ‘“L’origine des particularités de l’alphabet vietnamien” (Nguồn gốc những điểm dị biệt trong bảng chữ cái tiếng Việt), năm 1949.

Theo Haudricourt, A.G. “Khi một ngôn ngữ được ghi lại bằng chữ viết lần đầu tiên, hệ thống chữ viết dùng để ghi lại ngôn ngữ đó thường dựa trên hệ thống chữ viết của một ngôn ngữ khác và hệ thống chữ viết mới kế thừa những đặc điểm dị biệt từ hệ thống chữ viết mà nó dựa vào. Như vậy, Do được xây dựng dựa trên hệ thống chính tả của một số ngôn ngữ Roman mà chữ Quốc Ngữ của tiếng Việt cũng thừa hưởng những điểm dị biệt có trong những ngôn ngữ này”.

Haudricourt chỉ ra rằng trong chữ Quốc Ngữ các chữ cái Ă, PH, TH và KH được mượn từ chữ La Tinh (song có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp); các chữ Â, C, Ê, G, Ô,  S, X và CH, NH được mượn từ chữ Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha;  QU và GU được mượn từ tiếng Italia và tiếng La Tinh, GI được mượn từ chữ Bồ Đào Nha và chữ Pháp; X được mượn từ chữ Bồ Đào Nha; 4 trong 5 dấu ghi thanh điệu (HUYỀN, SẮC, NGÃ, NẶNG) có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp, chỉ có dấu HỎI bắt nguồn từ chữ La Tinh.

Mặc dù chữ viết La Tinh cũng thường được gọi là chữ Roman hay La Mã, song để tránh hiểu lầm và phân biệt với chữ viết của tiếng La Tinh (một ngôn ngữ cụ thể hiện chỉ được dùng trong một số lĩnh vực nhất định) khi nói về nguồn gốc của chữ Quốc Ngữ, cần khẳng định rằng chữ Quốc Ngữ là chữ viết được xây dựng dựa trên các chữ cái của các chữ viết Roman hay (La Mã). Cũng vì lẽ đó mà loại chữ viết được xây dựng từ chữ cái của các ngôn ngữ Roman ở Nhật Bản được gọi là chữ Romaji.

Hẳn là lưu ý đến điều này, từ năm 1940 trong tác phẩm “Việt Nam văn phạm”, học giả Trần Trọng Kim đã viết rằng  “Chữ nôm là lối chữ mượn âm hay mượn ý của chữ nho mà đặt ra. Sau, các giáo-sĩ đạo Thiên-chúa sang truyền đạo, mới dùng những chữ cái của La-mã mà phiên lấy âm, đặt ra chữ quốc-ngữ, là một thứ chữ bây giờ dùng rất phổ-thông trong nước.”

Võ Xuân Quế
Tin khác
Hồ Chí Minh và vẻ đẹp vĩ nhân luôn tin ở con người
Hồ Chí Minh và vẻ đẹp vĩ nhân luôn tin ở con người

‘Hồ Chí Minh - Người tin ở con người’ là tuyển thơ của tác giả Hải Như, được ấn hành nhân kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tương truyền dấu chữ người thơ xưa & bước chân Đầu Đà người tu nay
Tương truyền dấu chữ người thơ xưa & bước chân Đầu Đà người tu nay

Thơ Hồ Xuân Hương có sức ảnh hưởng to lớn đến mức ngoài phần thơ 'chính hiệu', còn trên trăm bài phổ biến trong dân gian cũng được 'tương truyền' là do bà sáng tác.

‘Đóa hoa sương núi’ ẩn hiện ước mơ những đứa trẻ Raglai
‘Đóa hoa sương núi’ ẩn hiện ước mơ những đứa trẻ Raglai

‘Đóa hoa sương núi’ của tác giả Tâm An được ra mắt sáng mồng ba Tết Ất Tỵ tại lễ hội Đường sách TP.HCM, chia sẻ cuộc sống những đứa trẻ dân tộc Raglai.

'Tắt lửa lòng' của Nguyễn Công Hoan được thắp lại trên sân khấu
'Tắt lửa lòng' của Nguyễn Công Hoan được thắp lại trên sân khấu

‘Tắt lửa lòng’ của nhà văn Nguyễn Công Hoan sau 90 năm xuất hiện trên sân khấu cải lương lại được đưa lên sân khấu kịch nói vào dịp Tết Ất Tỵ.

Đánh đáo - trò chơi dân gian của trẻ con dịp Tết
Đánh đáo - trò chơi dân gian của trẻ con dịp Tết

Khắp các khoảnh đất, dưới các bụi tre, bên đình đều có xới đáo của bọn trẻ con. Quần áo mới, túi rủng rẻng, mồ hôi, mồ kê bết tóc, hăng say và cay cú.

Bầy rắn của nhà thơ Hữu Loan
Bầy rắn của nhà thơ Hữu Loan

Nhớ năm 1988, Hữu Loan trở lại Hà Nội sau bao năm biền biệt. Đưa cụ Hữu Loan cùng đám bạn bám theo về khu tập thể, chợt tôi lóe ra một quyết định.

Truyện ngắn của nhà văn Phạm Lưu Vũ: Đạo dụ tân kinh
Truyện ngắn của nhà văn Phạm Lưu Vũ: Đạo dụ tân kinh

Có câu rằng: “Số thầy thì để cho ruồi nó bâu”.

Lễ nghi Tết chốn cung đình
Lễ nghi Tết chốn cung đình

Huế đẹp không chỉ từ Quần thể di tích Cố đô mà đẹp từ trong ý thức của mỗi người về văn hóa lễ hội.

Đình nguyên Hoàng giáp Bùi Sĩ Tiêm: 'Còn một lòng âu việc nước'
Đình nguyên Hoàng giáp Bùi Sĩ Tiêm: 'Còn một lòng âu việc nước'

Cuộc đời làm quan của Bùi Sĩ Tiêm sẽ còn thăng tiến nếu ông không nói lời ngay thẳng để vạch ra những nguyên nhân khiến xã hội lúc đó rối ren, hỗn loạn.

Truyện ngắn của nhà văn Phạm Ngọc Tiến: Thăm thẳm vòng đời
Truyện ngắn của nhà văn Phạm Ngọc Tiến: Thăm thẳm vòng đời

Non tháng nữa là Tết nhưng nắng cứ vàng rờ rỡ cả ngày, còn may trời vẫn se se lạnh lúc cuối chiều nên cữ đạp xe thể thao thường nhật của ông Cả Ngưỡng xem ra nhàn nhã khác hẳn ngày hè nóng nực hay tiết thu thất thường khi oi nồng lúc mát mẻ.

Giao thừa bâng khuâng những hương vị hoài niệm xa xưa
Giao thừa bâng khuâng những hương vị hoài niệm xa xưa

Giao thừa bâng khuâng thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, như réo gọi những thanh âm một thời xa xưa từ ký ức vọng về từng đợt nôn nao.

'Trời đã mới người càng nên đổi mới'
'Trời đã mới người càng nên đổi mới'

Bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, ta hãy cùng đọc, cùng ngẫm để cùng thấm tư tưởng sống này của Phan Bội Châu.