Diễn giải đôi câu đối được cho là của chúa Trịnh Sâm ở Đền Hùng

Lí Học - Thứ Năm, 23/05/2024 , 06:00 (GMT+7)

Xâu chuỗi những nhận định từ đầu thế kỷ XX đến nay, có thể nói, đôi câu đối hẳn là của bậc vua, chúa chứ không phải của cấp quan lại, dân thường.

Câu đối trên khu di tích Đền Hùng.

Lâu nay, người ta thường nhắc đến một đôi câu đối ở Đền Hùng “Vấn lai dĩ sự tu vi sử/ Tế nhận như đồ dục mệnh thi” cho rằng tác giả của nó là chúa Trịnh. Lần tìm theo những diễn giải của các nhà nghiên cứu xưa và nay, thấy thêm nhiều thông tin thú vị.

Ngày 1/5/2023, trên blog "Yêu Hán Nôm", tác giả Trúc Giang Nguyễn Đức Toàn trong bài viết “Bút tích Chúa Trịnh đề Hùng Vương lăng” cho biết, tại Đền Hùng ở Phú Thọ, trên lưng chừng núi là một lăng mộ tượng trưng gọi là Hùng Vương Lăng. Bên cạnh là Đền Trung, trong đền có 2 bức đối kỳ lạ không đề niên đại, không lạc khoản. Là hai câu thơ xếp đối mà đọc lên như là bất đối chi đối, nghĩa là 2 câu đối viết theo dạng đối mà tưởng như không đối: 問來已事須為史 - 細認如圖欲命詩.

"Vấn lai dĩ sự tu vi sử/ Tế nhận như đồ dục mệnh thi" (Muốn hỏi chuyện đã qua, nên nghiệp sử/; Nhìn kỹ cơ đồ, muốn họa thơ).

Tác giả Nguyễn Đức Toàn tìm trong văn bản Hán Nôm “Bắc Kỳ châu quận canh hoán phân hợp phú” có bài phú của nhà nho Dương Lâm soạn năm Khải Định thứ Năm (1920) được cụ Trần Văn Giáp chép bằng bút sắt, hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Trong tác phẩm của mình, phần chép về tỉnh Phú Thọ, có đoạn chú thích của chính tác giả Dương Lâm, nói rõ ràng: Đây là bút tích của chúa Trịnh.

“Núi tổ Hùng sơn, cây cối cao vút. Trên núi có đền, cạnh đền có mộ. Trên mộ Hùng Vương có đề câu đối của chúa Trịnh rằng: 問來已事須為史 - 細認如圖欲命詩. Hỏi ra thiên sử mấy lần; Thành thơ cẩn thận nên tranh họa đồ. Nét chữ cổ kiện, văn ý hùng mại, đúng là khí tượng của Quản, Hoắc. Đúng là thủ bút của chúa Trịnh”.

Cũng theo tác giả Nguyễn Đức Toàn, đây có thể là bút tích của chúa Trịnh Sâm. Chúa Trịnh Sâm là một vị chúa tài hoa phong lưu, có tài thơ văn, thích đề vịnh danh lam thắng cảnh. Tuy nhiên, vẫn cần thêm nhiều thông tin khác.

Bức hoành phi câu đối tại Đền Hùng, ảnh chụp đầu thế kỷ XX. Ảnh: EFEO.

Trên nhóm Facebook "Hán Nôm kinh kỳ" ngày 5/5/2023, với tiêu đề “Về đôi câu đối được cho là của chúa Trịnh Sâm ở Đền Hùng”, tác giả Trần Ngọc Đông đã tìm ra được thêm hai đôi câu đối khác có nội dung giống và đặc biệt là có bút pháp hoàn toàn như nhau với bức câu đối ở đền Hùng.

Đó là bức câu đối ở nhà thờ họ Bùi ở làng Bặt, tức Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Nội (nhà thờ cụ Thượng thư Bùi Bằng Đoàn) và câu đối ở nhà thờ họ Nguyễn của cụ Nghè Trâu Lỗ Nguyễn Đình Tuân ở Hiệp Hòa (Bắc Giang).

Theo phán đoán của Trần Ngọc Đông, có thể thấy cả ba câu đối cùng một kiểu chế tác và cả ba đều có liên quan ít nhiều tới danh sĩ Dương Lâm. Ở nhà thờ họ Nguyễn ở Trâu Lỗ còn một bức do nhóm văn thân (có đề tên cả cụ Dương Lâm đề tặng). Và phải chăng, Dương Lâm đã cùng làm cả 3 câu rồi cung tiến, tặng hay dập chữ theo câu mẫu đã có ở đền Hùng?

Trần Ngọc Đông dẫn thêm tư liệu sách "Tĩnh Đô Vương" của tác giả Phan Trần Chúc (NXB Mai Lĩnh, 1943), thì cho là chúa Trịnh Sâm khi thăm Đền Hùng thản nhiên viết đôi câu đối và cho thợ khắc.

Tra cứu tài liệu xuất bản trước 1945 ở Việt Nam, chúng tôi tìm thấy bài viết của thi sĩ Tản Đà trên An Nam tạp chí năm 1925 cũng có bàn đến đôi câu đối này. Trong bài viết “Tính nhân tuần của người An Nam ta từ xưa đến nay” trên An Nam tạp chí, số 2, năm 1925, Tản Đà thuật lại:

“Năm xưa, tôi đi hội Đền Hùng, lên chiêm yết ở lăng đức Hùng Vương, thấy có treo một đôi câu đối sơn, lối chữ viết thật tốt mà nước sơn cũng đẹp, mỗi bên chỉ có bảy chữ rằng: "看來已事須為史 - /細認如圖欲命詩" (Khan lai dĩ sự tu vi sử/ Tế nhận như đồ dục mệnh thi). Ngoài 14 chữ ấy thời không có niên hiệu và lạc khoản gì cả. Tuy không biết là của ai và treo từ bao giờ, nhưng cứ trông lối chữ và nước sơn, có thể đoán là câu đối ấy cổ.

Lại nghĩ như một chỗ rất tôn nghiêm như thế, mà chỉ một đôi câu đối được treo ở trong đó, thời tất là người có cái câu đối ấy có vị thế đặc biệt ở đương thời. Sau hỏi ra thời có người nói rằng: Ấy là của chúa Trịnh khi trước. Câu nói đó tuy là hồ đồ song cũng có thể lấy làm tin; vì xem như họ Trịnh ở trong đời nhà Lê, đối với vua Lê đã không coi ra gì, thời đối với Hùng Vương mà có cái câu đối ấy, cũng là một sự bất túc quái”.

Văn bản này của Tản Đà có chép nhầm chữ "問" (vấn) thành chữ "看" (khán), tuy nhiên điều đó nằm ngoài nội dung vấn đề bàn luận của bài viết.

Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu không dịch nội dung đôi câu đối trên mà mượn lời dịch theo thể lục bát của Phó bảng Nguyễn Đạo Quán - Thương tá tỉnh Thái Bình in trong cuốn “Sự tích mười tám đời Hùng Vương”: Xem việc đã rồi nên chép sử/ Nhìn tranh như vẽ muốn ban thơ.

Câu đối tại Đền Hùng được cho là của Trịnh Sâm. Ảnh: EFEO.

Tản Đà không dịch xuôi ra quốc ngữ mà mượn lời dịch của Nguyễn Đạo Quán, là bởi lời dịch này rất đắc địa chữ “muốn ban thơ”. Tản Đà viết: “Cứ nguyên văn như thế mà dịch ra như thế thời phải lắm. Nay ai thử ngẫm xem ba chữ dịch văn “muốn ban thơ”, thời biết ba chữ nguyên văn “欲命詩” thực là bất kính một cách lạ. Chữ "命" (mệnh) tức là ban, là nhời người trên đối đãi với kẻ dưới, Hùng Vương thời là thủy tổ của nước Nam, dẫu từ Đinh, Lý, Trần, Lê, các vua ai có dám viết như thế chăng, cũng đều là bất kính, mà huống chi họ Trịnh ru?

Duy họ Trịnh quyền thần thói quen, cho nên cũng mới dám như thế vậy. Đương khi kẻ có quyền thế ở trong tay, dẫu muốn làm càn đến thế nào, cũng không có ai dám ngăn cấm; đó là một sự dĩ vãng, bàn nữa cũng không làm chi. Chỉ lạ rằng thời đại đã qua, uy quyền đã đổi, hội hè tế lễ, đến nay đã bao năm, mà một đôi câu đối ta vẫn treo đó như xưa, thời cái tính nhân tuần của người An Nam ta thật là một đặc tính vậy.

Nhân sự đó mà nghĩ ra thời từ xưa đến nay, sự cơ khích thích ra làm sao mà một cái tính nhân tuần vẫn như cũ.”

Lần giở cuốn Sự tích 18 đời Hùng Vương mà Tản Đà có tham khảo, thấy Nguyễn Đạo Quán cũng đưa ra nghi vấn về người làm ra đôi đối này, tuy không khẳng định chắc chắn: “Câu đối không thấy đề niên hiệu đời nào, cũng không đề tên họ người làm, lấy ý nghĩa mà đoán thời câu ấy ngờ là của vua Lê, hoặc chúa Trịnh mạnh bút” (Phó bảng Thái Bình thương tá tỉnh vụ Mộng Yến Nguyễn Đạo Quán. Tản Đà thư cục, 58 phố Hàng Bông, Hà Nội ấn bản năm Quý Hợi, Khải Định thứ tám 1923, trang 36).

Xâu chuỗi những nhận định, đánh giá của các tác giả từ Tản Đà, Nguyễn Đạo Quán, Phan Trần Chúc ở đầu thế kỷ XX đến Nguyễn Đức Toàn, Trần Ngọc Đông ở đầu thế kỷ XXI, có thể nói, đôi câu đối ở Đền Hùng: "Xem việc đã rồi nên chép sử/ Nhìn tranh như vẽ muốn ban thơ" hẳn là của bậc vua, chúa chứ không phải của cấp quan lại, dân thường.

Bài phú của Dương Lâm ở trên và sự phân tích chữ “dục mệnh thi - muốn ban thơ” của Tản Đà càng giúp chúng ta có cơ sở hơn để khẳng định điều đó.

Lí Học
Tags:
Tags:
Tin khác
Hồ Chí Minh và vẻ đẹp vĩ nhân luôn tin ở con người
Hồ Chí Minh và vẻ đẹp vĩ nhân luôn tin ở con người

‘Hồ Chí Minh - Người tin ở con người’ là tuyển thơ của tác giả Hải Như, được ấn hành nhân kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tương truyền dấu chữ người thơ xưa & bước chân Đầu Đà người tu nay
Tương truyền dấu chữ người thơ xưa & bước chân Đầu Đà người tu nay

Thơ Hồ Xuân Hương có sức ảnh hưởng to lớn đến mức ngoài phần thơ 'chính hiệu', còn trên trăm bài phổ biến trong dân gian cũng được 'tương truyền' là do bà sáng tác.

‘Đóa hoa sương núi’ ẩn hiện ước mơ những đứa trẻ Raglai
‘Đóa hoa sương núi’ ẩn hiện ước mơ những đứa trẻ Raglai

‘Đóa hoa sương núi’ của tác giả Tâm An được ra mắt sáng mồng ba Tết Ất Tỵ tại lễ hội Đường sách TP.HCM, chia sẻ cuộc sống những đứa trẻ dân tộc Raglai.

'Tắt lửa lòng' của Nguyễn Công Hoan được thắp lại trên sân khấu
'Tắt lửa lòng' của Nguyễn Công Hoan được thắp lại trên sân khấu

‘Tắt lửa lòng’ của nhà văn Nguyễn Công Hoan sau 90 năm xuất hiện trên sân khấu cải lương lại được đưa lên sân khấu kịch nói vào dịp Tết Ất Tỵ.

Đánh đáo - trò chơi dân gian của trẻ con dịp Tết
Đánh đáo - trò chơi dân gian của trẻ con dịp Tết

Khắp các khoảnh đất, dưới các bụi tre, bên đình đều có xới đáo của bọn trẻ con. Quần áo mới, túi rủng rẻng, mồ hôi, mồ kê bết tóc, hăng say và cay cú.

Bầy rắn của nhà thơ Hữu Loan
Bầy rắn của nhà thơ Hữu Loan

Nhớ năm 1988, Hữu Loan trở lại Hà Nội sau bao năm biền biệt. Đưa cụ Hữu Loan cùng đám bạn bám theo về khu tập thể, chợt tôi lóe ra một quyết định.

Truyện ngắn của nhà văn Phạm Lưu Vũ: Đạo dụ tân kinh
Truyện ngắn của nhà văn Phạm Lưu Vũ: Đạo dụ tân kinh

Có câu rằng: “Số thầy thì để cho ruồi nó bâu”.

Lễ nghi Tết chốn cung đình
Lễ nghi Tết chốn cung đình

Huế đẹp không chỉ từ Quần thể di tích Cố đô mà đẹp từ trong ý thức của mỗi người về văn hóa lễ hội.

Đình nguyên Hoàng giáp Bùi Sĩ Tiêm: 'Còn một lòng âu việc nước'
Đình nguyên Hoàng giáp Bùi Sĩ Tiêm: 'Còn một lòng âu việc nước'

Cuộc đời làm quan của Bùi Sĩ Tiêm sẽ còn thăng tiến nếu ông không nói lời ngay thẳng để vạch ra những nguyên nhân khiến xã hội lúc đó rối ren, hỗn loạn.

Truyện ngắn của nhà văn Phạm Ngọc Tiến: Thăm thẳm vòng đời
Truyện ngắn của nhà văn Phạm Ngọc Tiến: Thăm thẳm vòng đời

Non tháng nữa là Tết nhưng nắng cứ vàng rờ rỡ cả ngày, còn may trời vẫn se se lạnh lúc cuối chiều nên cữ đạp xe thể thao thường nhật của ông Cả Ngưỡng xem ra nhàn nhã khác hẳn ngày hè nóng nực hay tiết thu thất thường khi oi nồng lúc mát mẻ.

Giao thừa bâng khuâng những hương vị hoài niệm xa xưa
Giao thừa bâng khuâng những hương vị hoài niệm xa xưa

Giao thừa bâng khuâng thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, như réo gọi những thanh âm một thời xa xưa từ ký ức vọng về từng đợt nôn nao.

'Trời đã mới người càng nên đổi mới'
'Trời đã mới người càng nên đổi mới'

Bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, ta hãy cùng đọc, cùng ngẫm để cùng thấm tư tưởng sống này của Phan Bội Châu.