Diễn thuyết của học giả Hội Trí tri

Gia đình giáo dục

. - Thứ Hai, 13/02/2023 , 06:10 (GMT+7)

Đây là diễn thuyết của học giả Bùi Quang Huy, Giáo sư trường Bảo hộ Hà Nội tại Hội Trí tri Hà Nội ngày 15/10/1925.

LTS: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội vừa ấn hành cuốn “Diễn thuyết Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX - Những thanh âm văn hóa của Hội Trí tri”, tuyển chọn 38 bài diễn thuyết của Hội Trí tri trong thời gian từ 1921 đến 1945 về các chủ đề văn hóa, lịch sử, danh nhân, văn chương, mĩ thuật, di tích thắng cảnh và y khoa. Sách sưu tầm bài diễn duyết của các học giả quen thuộc như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Hữu Tiến, Trần Văn Giáp, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Tường Phượng..., trong đó một số bài diễn thuyết lần đầu tiên được in lại sau hơn 70 năm vắng bóng. Báo Nông nghiệp Việt Nam xin trích lược đăng một số bài diễn thuyết giới thiệu với bạn đọc.

Gia đình giáo dục thật là quan trọng, số phận đứa trẻ, hạnh phúc một nhà, hậu vận một nước, đều tùy ở đấy cả. Ai cũng biết vậy, cho nên từ người học thức đến kẻ thường dân, ai cũng nhận rằng, “đẻ con chẳng dạy, chẳng phải là người”.

Nhưng cũng có người nói rằng: “Trời đã sinh ra đứa trẻ nào thông minh, thì chẳng dạy nó cũng giỏi mà đứa nào bẩm sinh ngu đần thì có phép tiên cũng không hóa nổi được nó. Vậy thời tổn công dạy dỗ có làm chi. May mà được đứa con khôn, đứa trò giỏi thì nào bố, nào thầy tranh nhau để nhận lấy công, chẳng may phải đứa ngu đần thời xua đi cho chóng, nào là “sinh con ai nỡ sinh lòng”, cùng là “chữ đâu nhồi vào…”. Gia đình giáo dục với học đường giáo dục đều là việc hão đức Khổng Tử thì ai dạy làm thánh? Ông Thích Ca thì ai dạy làm Phật? Còn đức Khổng Tử sao ngài chẳng dạy làm đức Khổng Tử con? Còn phật Thích Ca, sao Phật chẳng hóa cho ra thành Phật?”.

Trước khi bàn đến vấn đề gia đình giáo dục, phải xét xem lời công kích trên kia có chính đáng không. Trong những người cho việc dạy con là vô ích, thời có người suy ở việc thường: Thấy trong một nhà cùng một bố mẹ sinh ra mà có đứa con thông minh cần mẫn, học đâu biết đấy, cũng có đứa thật ngu ngốc, đã không khôn từ thuở lên ba, đã dại đến già cũng dại. Cùng một bố mẹ anh em, có kẻ sang, người ngu, kẻ khôn, người dại, mười ngón tay cũng có ngón dài ngón ngắn. Nhưng bảo rằng: Đứa khôn chẳng dạy cũng khôn, đứa dại dạy sao cũng dại, thời là người cha bực với con mà nói thế thôi. Chứ không dạy sao có khôn, đã dạy sao có dại mãi. Chỉ là đứa thông minh thì dạy chóng biết, đứa ngu độn thì dạy lâu mới biết mà thôi, cũng như một người lớn đi đường xa với đứa trẻ con, người lớn đi khỏe nhanh, ngảnh lại cứ mắng đứa trẻ rằng: “Sao mày không bước đi được”. Đứa trẻ sợ mà không dám cãi đấy thôi chứ quả nó có bước đi nhiều đấy chứ! Còn lấy cái lí thuyết “tiền định” mà bảo người ta không cưỡng nổi ý trời, thời trước hết ta nên biết rằng cái lí thuyết tiền định ấy vị tất đã là đạo chung của trời đất, hay chỉ là một chuyện bàn hão của đời.

Tại lễ khai trương Hội Trí tri. Ảnh: TL.

Người có chí quyết không bao giờ chịu thế. Người có chí nếu đã biết việc mình định làm là phải, thời dẫu có trăm vạn kẻ khác đã dụng công ngăn trở, đem hết uy quyền mà dậm dọa, dùng đủ miếng ngon mà dỗ dành, cũng vẫn trơ như đá, vững như đồng, chung thân giữ một điều nghĩa, dẫu có tan xương nát thịt âu cũng hả lòng. Cái thân mình có tan, nhưng chí mình còn lại, phảng phất ở cành cây ngọn cỏ, lai láng trên mặt nước thăm thẳm mấy tầng mây, âm thầm dưới bóng trăng khuya, cuồn cuộn trong cơn gió thổi. Biết đâu lại chả có ngày gặp kẻ đồng tâm lại chả có phen tung hoành bốn bể. Mà dẫu có phải thực chẳng gặp thời, thực chẳng có người đồng chí, thì những bậc gan vàng dạ sắt ấy có phải vì nghĩa mà tấm thân trăm mảnh, đầu bên ngọn cỏ, xác vứt đáy hồ, thử hỏi người đời, mà cả đến những kẻ kia đã triệt hạ được người có cúi đầu, rỏ giọt, ô hô mà cảm phục tấm gương tiết nghĩa đấng trượng phu không?

Ta cứ yên trí rằng đẻ con thì phải dạy. Nhưng dạy phải có phương pháp. Không có phương pháp thời chẳng những việc dạy con mà cả muôn việc ở đời chẳng bại hoại cũng khốn khó mới thành công. Vả khuôn phép dạy con không giản tiện như khuôn phép bác thợ nề nẩy mực. Phàm việc gì có can thiệp đến tinh thần con người cũng là phiền phức. Bởi vì tâm lí của giống người thật là một vật kì quái không - có, có - không chính nó chẳng là gì mà bao nhiêu cảnh vật trong trời đất đều chiếu rọi vào đấy mà đúc nên một vật rất linh thiêng, thiên hình vạn trạng, ẩn hiện biến hóa vô cùng.

Vậy thời ta muốn dạy con cũng như khảo xét tâm lí một người, trước hết phải xét cái cảnh vật chung quanh nó thế nào, có ảnh hưởng đến đứa trẻ ra làm sao và gây cho nó những tính chất gì, thì mới biết đường mà dạy bảo khuyên răn. Tức là dạy con như chữa bệnh, phàm người có bệnh đều tại hai căn: Một là ngoại cảm, hai là nội thương, hai cái ấy đều có quan hệ lẫn nhau, vì nhiễm mãi cái độc ở ngoài mà thân thể ở trong sinh đau yếu, thì cái độc ở ngoại lại càng dễ cảm. Cứ như vậy cảm sinh thương, thương sinh cảm, luân hồi kế tiếp làm cho con bệnh đau đớn mãi đến ngày tận số mới tan. Vậy muốn chữa bệnh phải tìm bệnh căn, muốn dạy con khỏi hư dốt, phải xem hư dốt tại đâu.

Tổ tiên ta sống ở đất nước này đã mấy nghìn năm, sinh sản ra con cháu chỉ ngày một đông, thời tất không phải núi sông kia bạc đãi giống nòi Việt Nam. Khí thiêng của núi sông đã hun đúc ra giống nhà mình, thời mình tất có thể sống cùng núi sông ấy, hà tất phải cầu cạnh xứ sở nhà người. Mà dẫu có thật giang sơn nhà mình chẳng tốt đẹp bằng phong cảnh nhà người nữa, nhưng núi non kia là huyết hãn ông cha mình lai láng, thời dẫu có phải ta vì sống ở núi sông ấy mà chết nữa, ắt cũng can tâm. Ấy là ý muốn nói ta không nên bội bạc, đổ vạ cái hư hèn của ta cho sông núi, kẻo tội với trời đất, tổ tiên. Con cái ta sinh trưởng ở đất nước nhà, có chịu ảnh hưởng của núi sông, nhưng ảnh hưởng ấy quyết chỉ có lợi mà không có hại. Lợi là được nhờ ở đất nước mà sống để giữ lấy dòng dõi được lâu bền, lợi là được sống ở đất nước nhà để học lấy đạo làm con cháu giống Hồng Lạc.

Ta đã xét cái ảnh hưởng của núi sông và nhận rằng, cái ảnh hưởng ấy từ cổ chí kim không thay đổi và không có hại gì đến con trẻ nhà mình. Bây giờ thì phải xét đến xã hội ta và xem ảnh hưởng đến trẻ con thế nào. Xã hội ta đang phải lúc nhỡ nhàng, nhà cũ đổ nát, nhà mới chưa dựng. Văn minh cũ đã bỏ rồi, văn minh mới chưa học được. Gia đình ta cũng đang phải cái nỗi dở dang ấy. Trong tương lai hoàn cảnh có ảnh hưởng đến con trẻ, thì núi sông đất nước không có hại gì, còn xã hội và gia đình thời gây cho chúng nó một là tính đê hèn, mất cả tư cách làm người, hai là tính cô độc, bỏ cả nòi giống, phụ tổ tiên. Vậy thời nay ta dạy con phải trước hết trừ hết cái tệ ấy đi. Trừ tệ ấy có hai kế: Một là phải tuyệt cái độc ở ngoài, nghĩa là làm thế nào cho xã hội và gia đình không có ảnh hưởng đến trẻ con; hai là bồi bổ ở trong, tức là dạy dỗ khuyên răn cho đứa trẻ có ý khí, có đảm đang, biết đoàn thể, biết yêu nòi giống, biết trọng tổ tiên, biết thương nhân loại.

Ta đã xét rằng, xã hội và gia đình gây cho trẻ con cái tính đê hèn và cô độc, mất cả tư cách làm người, quên cả nòi giống tổ tiên, thành ra một hạng người nhỡ nhàng, trên không chằng, dưới không rễ, trước không nhớ đến ai sau không nghĩ đến ai, bo bo sướng một thân mình, ai khổ mặc ai, nếu được bữa rượu ngon thịt béo, thời họ hàng chúng bạn và cả đến danh giá của mình cũng bán rẻ mà mua.Vậy ta phải dạy con làm sao, một là cho nó biết tự trị, hai là cho nó biết đoàn thể, ấy là cái phương châm rất thích hợp cho chúng ta bây giờ. Kể cái cách dạy con cho đạt mục đích ấy thời nhiều, mỗi người mỗi cách, tùy cha mẹ, tùy con trẻ. Nhưng tôi thường nghĩ mấy cách sau đây: Một là cha mẹ phải thân với con để dạy con, thời mới trừ được mọi thói xấu ở trong tâm tính nó. Hai là chọn bạn cho nó gần, tìm chỗ cho nó chơi, để mở mang trí tuệ và tiêm nhiễm lấy tính đoàn thể.

Nhưng mà phàm muôn việc ở đời tuy đã hiểu được lẽ, định được việc song cũng phải có đủ tư cách để làm việc ấy thời mới thành công. Vậy hãy ngẫm xem ta có đủ tư cách ấy không?

Thế nào là có tư cách dạy con? Ta muốn bảo ai điều gì bất cứ trẻ con, người lớn, nếu chính ta có làm nổi việc ấy thời nói mới có người nghe. Ta muốn dạy con ta có đủ tính nết hay, thì ta cũng phải có đủ các tính nết hay ấy. Vậy tư cách dạy con là có đức tính hoàn toàn. Song ở đời mấy ai chắc mình có đủ đức tính hoàn toàn, thế ra không ai dạy nổi được con mình hay sao? Có đức tính hoàn toàn là cực điểm tư cách dạy con. Chúng ta dẫu chửa mấy người tới được cái cực điểm ấy, nhưng cũng có người gần, người xa. Càng gần cái cực điểm ấy bao nhiêu thì càng có tư cách dạy con bấy nhiêu. Càng xa cái cực điểm ấy bao nhiêu thì càng ít tư cách dạy con bấy nhiêu.  Vậy muốn giàu tư cách dạy con tất phải sửa mình. Ta sửa được mình bao nhiêu dạy con càng dễ bấy nhiêu. Lắm khi ta chẳng phải dạy mà cứ trông ta tự khắc nó theo. Bởi vì lời nói tuy có nghĩa nhưng việc làm lại còn nhiều nghĩa sâu hơn. Cho nên cha dạy con đừng đánh bạc, nhưng cứ bắt chước cha bài bạc cả ngày. Vả nếu sửa được mình thì chẳng những dạy được con, còn đến những việc khó nữa cũng làm dễ như chơi.

. Nguyễn Văn Học (Sưu tầm, giới thiệu)
Tin khác
Hai người họ Tô giữa tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh
Hai người họ Tô giữa tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh

Hai người họ Tô là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Tô Quyền và Nghệ sĩ Nhân dân Tô Lan Phương xuất hiện trong ‘Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh’.

Nhà văn Y Ban đã thấy gì trên đỉnh giời?
Nhà văn Y Ban đã thấy gì trên đỉnh giời?

Nhà văn Y Ban tiếp tục khẳng định một giọng nữ đặc sắc trong đời sống văn chương Việt Nam, bằng tập truyện ngắn có tên gọi ‘Trên đỉnh giời’.   

Cựu chiến binh hồi tưởng mặt trận gần phía trước
Cựu chiến binh hồi tưởng mặt trận gần phía trước

Cựu chiến binh Trần Trí Thông gửi gắm niềm riêng qua trường ca ‘Mặt trận gần phía trước’ phát hành đúng dịp kỷ niệm 80 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.

Nhà văn Anh Đức trong ký ức đồng nghiệp thế hệ sau
Nhà văn Anh Đức trong ký ức đồng nghiệp thế hệ sau

Nhà văn Anh Đức được hậu sinh nhắc đến một cách trân trọng tại hội thảo kỷ niệm 10 năm ông qua đời, vừa tổ chức sáng 18/12 ở TP.HCM.

Tác giả trẻ My Tiên và vùng da thiêng nhiều cảm xúc
Tác giả trẻ My Tiên và vùng da thiêng nhiều cảm xúc

Tác giả trẻ My Tiên ở đất võ Bình Định vừa ra mắt tập thơ ‘Vùng da thiêng’ với nhiều cảm xúc nồng nàn về quê hương và con người Nam Trung bộ.

Mạch nha Thi Phổ
Mạch nha Thi Phổ

Làng Thi Phổ thuộc huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, là nơi sản xuất loại mạch nha thơm ngon nổi tiếng trong cả nước, gọi là 'mạch nha Thi Phổ'.

Tác phẩm Hồ Biểu Chánh vẫn được công chúng đón nhận
Tác phẩm Hồ Biểu Chánh vẫn được công chúng đón nhận

Tác phẩm Hồ Biểu Chánh không chỉ được chuyển thể thành phim truyền hình và phim điện ảnh, mà còn liên tục tái bản với số lượng lớn để phục vụ độc giả.

Khảo cứu: Bài thơ 'Bán than' không phải của Trần Khánh Dư
Khảo cứu: Bài thơ 'Bán than' không phải của Trần Khánh Dư

Trong 'Quốc văn trích diễm', giáo sư Dương Quảng Hàm trích bài thơ 'Bán than' và cho là của Trần Khánh Dư. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tác giả là người khác.

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đậm đà cốt cách Nam bộ
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đậm đà cốt cách Nam bộ

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, tác giả được giải thưởng Hồ Chí Minh, được hậu sinh kỷ niệm 10 năm ông đi xa, bằng một hội thảo tổ chức tại TP.HCM sáng 6/12.

Tinh hoa làng nghề chạm bạc Đồng Xâm
Tinh hoa làng nghề chạm bạc Đồng Xâm

Trên bia đá đền thờ tổ nghề chạm bạc Đồng Xâm có tuổi đời gần 600 năm ghi dấu ấn tinh hoa làng nghề và những điều răn dạy con cháu giữ nghiêm phép nghề.

'Hưng Hóa kí lược' - Một cuốn toàn thư về đất và người Tây Bắc
'Hưng Hóa kí lược' - Một cuốn toàn thư về đất và người Tây Bắc

Nội dung của 'Hưng Hóa kí lược' có 12 đề mục, bao gồm đầy đủ nội dung truyền thống của một cuốn địa chí.

Nhà thơ Đinh Nho Tuấn đoạt giải nhất ‘Nhân nghĩa đất phương Nam’
Nhà thơ Đinh Nho Tuấn đoạt giải nhất ‘Nhân nghĩa đất phương Nam’

Nhà thơ Đinh Nho Tuấn với chùm thơ về vẻ đẹp đô thị năng động và bao dung, đã được trao giải nhất cuộc thi thơ ‘Nhân nghĩa đất phương Nam’ năm 2024.