
Nhà văn Nam Cao (1915 - 1951) qua hí họa của Chóe.
Cuộc đời 36 năm của Nam Cao chỉ viết về trí thức nghèo và nông dân nghèo, với bao nỗi buồn thương dằng dặc. Đọc tác phẩm Nam Cao, chỉ muốn khóc cho “một bữa no” của những kiếp người bần cùng và đói rách. Cho nên, những dịp vui vẻ như lễ Tết, công chúng ít nhắc đến văn Nam Cao. Tuy nhiên, nếu soi rọi kỹ lưỡng trong sự nghiệp Nam Cao, cũng có thể phát hiện ra một tiếng cười sảng khoái và vài thoáng cười lặng lẽ.
Nhà văn Nam Cao, giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996, có họ tên trong giấy tờ khai sinh là Trần Hữu Tri. Quê quán ở tổng Cao Đà, huyện Nam Sang thuộc phủ Lý Nhân (xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam bây giờ) nên ông lấy chữ “Nam” trong huyện Nam Sang và chữ “Cao” trong tổng Cao Đà mà làm nên bút danh Nam Cao. Đầu năm 1935, Nam Cao tổ chức hôn lễ với thiếu nữ cùng làng Trần Thị Sen và đến cuối năm 1935 thì ông từ biệt vợ hiền để vào miền Nam kiếm sống. Tại Sài Gòn, Nam Cao làm thư ký cho hiệu may Ba Lễ và bắt đầu cầm bút. Những truyện ngắn đầu tay công bố năm 1936 và 1937 như “Cảnh cuối cùng”, “Hai cái xác”, “Một bà hào hiệp”, “Nghèo”, “Đui mù” hoặc “Những cánh hoa tàn” đều được Nam Cao viết tại đô thị phương Nam.
Vì sức khỏe thường xuyên đau yếu, giữa năm 1938, Nam Cao trở lại quê nhà dưỡng bệnh, rồi lên Hà Nội dạy học. Từ năm 1940, Nam Cao bắt đầu nổi tiếng trên văn đàn. Những cuộc đời cơ cực, những số phận lầm lũi, những định mệnh trái ngang được Nam Cao đưa vào trang viết, gây xúc động sâu sắc cho bạn đọc. Cái khổ trong truyện Nam Cao không chỉ là bần cố nông mà có cả tri thức. Ví dụ, nhân vật ông giáo Thứ trong “Sống mòn” túng bấn và chua chát “không dám dọn nhà ban ngày vì sợ thiên hạ biết mình ít đồ đạc, ban đêm mới lẻn đi như một cô gái chửa hoang đi đẻ... Bây giờ trong lòng hắn chỉ còn lại sự xót thương. Hắn thương vợ, thương con, thương tất cả những người phải khổ đau. Lòng hắn thiết tha rướn lên muốn vươn ra để ấp ôm lấy mọi người. Mắt hắn đầm đìa”.
Tuy nhiên, nhờ thấu hiểu những lấm láp và gieo neo, nhà văn Nam Cao tìm thấy một con đường bí mật của sự lạc quan. Truyện ngắn “Nụ cười” viết năm 1941, nhà văn Nam Cao không những viết hai cầu đề từ “Vui sướng đi cho đời ta vui/ Vui sướng đi cho người cùng vui”, mà ông còn để nhân vật Hoạt trình bày quan niệm vượt qua nghịch cảnh: “Lặng lẽ mà chịu những cái khó chịu hàng ngày, lặng lẽ mà đau đớn khi nỗi đau không tránh được, lấy nụ cười mà che đậy cái buồn riêng của mình để người chung quanh khỏi buồn lây... thì cũng là can đảm, mà là thứ can đảm ít người có được… Gặp những cái khó chịu, những điều trái ý , những nỗi đau khổ ở đời ta phải tìm cách chống lại, nhưng khi chống lại cũng không xong thì chỉ còn một cách mỉm cười mà nhận lấy”.
Không thể nào phủ nhận, không gian sáng tạo của nhà văn Nam Cao luôn bao phủ một sắc màu não nề day dứt. Ấy vậy mà, ngay giai đoạn bút lực sung mãn nhất, Nam Cao cũng lắm lúc thích cười. Tháng 9/1943, Nam Cao in truyện ngắn “Bực mình” trên tờ Tiểu thuyết Thứ Bảy, sau đó tự mình sửa lại thành “Cười”, và lấy “Cười” làm tên chung cho tập truyện ngắn xuất bản cùng năm. Rõ ràng, Nam Cao có tâm đắc thực sự với “Cười”. Trong di sản Nam Cao, “Cười” không nổi trội như “Đời thừa”, “Trăng sáng” hay “Trẻ con không được ăn thịt chó”, nhưng đó là một tác phẩm lạ. Những ai mến mộ nhà văn Nam Cao đều dễ dàng nhận ra, ông rất quan tâm đến việc đặt tên cho nhân vật. Và cái tài đặt tên cho nhân vật của Nam Cao ít nhiều giúp tác phẩm mở rộng biên độ thẩm mỹ. Ngoài hai nhân vật Chí Phèo và Thị Nở lừng lẫy, Nam Cao hay dùng tên nhân vật mà mình yêu mến để đặt cho tác phẩm như “Dì Hảo”, như “Lão Hạc”... Ngược lại, những nhân vật phản cảm thì Nam Cao đặt tên khá quái dị, ví dụ Trạch Văn Đoành trong “Đôi móng giò”, “Thiên Lôi” trong “Nửa đêm”. Hoặc nhân vật ông thầy lang đáng chê trách thì Nam Cao đặt tên là Rận, để thành truyện ngắn “Lang Rận”.
Truyện ngắn “Cười” không nhân vật nào có tên. Vì nhà văn Nam Cao quan niệm tiếng cười là của chung thiên hạ, không thuộc về riêng ai chăng? Nếu trong truyện ngắn “Nhìn người ta sung sướng”, Nam Cao đã một lần lý giải ý nghĩa của “một tiếng cười nảy lên đành đạch” rằng “họ cười ầm ĩ như thế chỉ là để đẩy bớt chua cay ra khỏi lòng”. Còn trong truyện ngắn “Cười”, Nam Cao phân tích tiếng cười một cách cụ thể và mạch lạc: “Khi người ta cáu, mặt người ta co rúm lại. Cổ người ta bị tắc. Máu tiết ra chất độc. Có hại cho sức khỏe ghê lắm đấy! Nhưng nếu ngay lúc ấy người ta cố mỉm cười một cái thì mọi sự tiêu tan hết. Mặt tươi ra. Có thoang thoáng chất độc trong người theo hơi thở thoát ra ngoài hết. Người trẻ lại. Nụ cười chính là một vị thuốc tiêu đàm, tẩy độc, lượng huyết và bổ tâm, phổ phế, bổ tì, bổ vị, bổ can, bổ thận, chẳng cái gì không bổ. Tiên dược đấy. Nó cải lão hoàn đồng rất mạnh”.
Nhân vật người chồng trong truyện ngắn “Cười” cảm thấy “khổ hơn bị người ta chặt cổ” vì có đứa con “hơi một tí đã nhè mồm ra khóc”, còn người vợ “rủa con và rủa luôn kiếp mình”. Thế nhưng, “không bao giờ hắn dám tức lâu. Bực tức hại người. Gặp lúc khó khăn, thức ăn tẩm bổ đã chẳng có, hơi đâu mà chuốc lấy những nỗi cáu kỉnh để phí sức đi… Bởi thế, mỗi lần tức giận, hắn vội tìm ngay ra một ý gì ngộ nghĩnh để mà cười cho đỡ khổ”.
Vì sao người chồng chọn giải pháp cười, mà không phải cách khác? Vì đã thử nhiều cách, kể cả cách tự thôi miên mình. Mỗi tối trước khi ngủ, “hắn nhắm hai mắt lại, tập trung tư tưởng. Hắn bắt đầu tự bảo: “Tôi khỏe lắm, tôi vui lắm. Tôi sung sướng lắm. Vợ tôi thật đáng yêu” với hy vọng mong manh rằng ‘hắn cứ cố kêu mãi, tất có ngày hắn sẽ khỏe lắm, vui lắm, sung sướng lắm, và vợ hắn đáng yêu lắm thật”. Tuy nhiên, cái phương pháp tự kỷ ám thị mà người chồng nghĩ ra cũng phá sản khi người vợ báo tin nhà hết tiền, phải bán bớt năm thùng thóc. Nhẩm tính gia đình mình chỉ còn lại hai mươi thùng thóc “ăn từ nay đến Tết, có lẽ ngoài Tết, đến tận vụ chiêm sang năm nữa”, người chồng lại cảm thấy chới với ở bến khổ.
Luôn dằn vặt “giời bắt anh ốm đau đến thành một phế nhân ăn hại vợ”, nên người chồng quyết tâm đi kiếm tiền bằng nghề dạy học. Người chồng ngỡ nói ra ý định thì được bạn đời ủng hộ, ai dè người vợ nhất mực ngăn cản “dạy học hại người lắm” phải nghỉ ngơi theo lời dặn của bác sĩ. Đôi co một hồi, thành cãi nhau ầm ĩ. Người vợ hầm hầm bế con đi, người chồng mím chặt môi tức giận. Và ngay khoảnh khắc bi đát và ngột ngạt ấy, thần dược đã phát huy tác dụng: “bỗng nhiên anh cười khanh khách. Bởi vì anh chợt nghĩ rằng: vợ anh nghiện cãi nhau, nếu không được cãi nhau thì đời sẽ buồn lắm lắm… Ở nhà để thỉnh thoảng cãi nhau với thị. Cãi nhau hai người thì mới đúng phép và mới thích, cũng như đánh quần vợt, đánh cờ hay đấu kiếm, một người không thành cuộc”.
Truyện ngắn “Cười” kết thúc bằng hình ảnh người chồng cười rũ rượi, cười ngặt nghẽo “ấy là anh lại dùng đến liều thuốc giải uất dùng mọi khi: tiếng cười”. Hơn 80 năm đã trôi qua, “liều thuốc giải uất” mà nhà văn Nam Cao phát hiện trong truyện ngắn “Cười” dường như vẫn còn nguyên giá trị trong bối cảnh hôm nay. Tết Ất Tỵ, nếu còn sống, nhà văn Nam Cao tuổi 110 có lẽ sẽ khuyên nhủ công chúng đương thời tiếp tục khai thác triệt để tiếng cười “không tốn kém một đồng xu nhỏ. Chỉ cần nhếch môi một cái. Dễ dàng hết sức. Vậy thì tội gì mà không cười. Cứ cười đi, cười nhiều đi”.