Người Việt, nhìn từ cái chết của Chí Phèo

Thái Hạo - Thứ Hai, 17/10/2022 , 08:31 (GMT+7)

Chúng ta có thật sự hiểu Nam Cao khi đã đẩy câu chuyện vào vấn đề giai cấp? Chúng tôi cho rằng điều ấy là không chính yếu trong tư tưởng Nam Cao.

Chân dung Nam Cao

Chân dung Nam Cao. Tranh của Lê Huy.

Chúng ta có thật sự hiểu Nam Cao khi đã đẩy câu chuyện vào vấn đề giai cấp? 

1.

Vì sao Chí Phèo chết? Thoạt nhìn thì câu trả lời thật giản tiện, Chí Phèo tự tử. Nhưng tại sao Chí tự tử? Vì Chí đã đâm chết Bá Kiến, hắn không thể thoát khỏi sự trừng trị. Bá Kiến chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của Chí.

Anh Chí ban đầu vốn là một người “lương thiện”, một người đã từng có những ước mơ rất đỗi bình dị mà đẹp đẽ, giấc mơ “chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”; một người không chấp nhận làm “con vật” trong tuổi 20 khi bị bà ba gọi lên bóp chân, “hai mươi tuổi người ta không phải là đá nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt”, anh “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Lòng tự trọng của anh dân cày đã giữ anh lại bên bờ của vực thẳm sa đọa trước thói dâm dục của những mụ đàn bà “nhàn rỗi ngu si”. Nhưng cũng chính người đàn ông ấy đã trở nên một thằng nát rượu, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một kẻ sống vật vờ trong sự sợ hãi và khinh bỉ của dân làng. Chí, từ một người hiền lành đáng yêu đã bị gạt ra khỏi đồng loại để chỉ còn lại “một thằng say rượu với ba con chó dữ”.

Bá Kiến, kẻ mà người ta gọi là thống trị, đã gây nên cơ sự ấy. Cụ Bá đã đẩy Chí vào tù để biến Chí thành một thằng lưu manh. Rồi cũng chính cụ đã “dùng” Chí như một công cụ đòi nợ và gây nên nỗi sợ hãi cho dân làng như một con quỷ kinh tởm.

Chí gặp Thị Nở, xác thịt và tình yêu đã đánh thức cả bản năng đàn ông lẫn khao khát hạnh phúc và giấc mơ làm người thủa trước. Chí đã hồi sinh trong bàn tay của một người đàn bà, dù thị xấu xí và dở hơi. Thế mới biết tình yêu/tình thương có phép màu cứu chuộc con người như sự màu nhiệm từ Chúa trời. Nhưng Chí đã phải khóc trong khi niềm hân hoan sung sướng mới lâng lâng được vài ngày. Chí quyết định giết Bá Kiến và kết liễu cuộc đời đã nát bét của mình khi biết cuộc đời ấy không thể trở lại để làm người được nữa.

Nhìn một mạch thì thấy Bá Kiến chính là nguyên nhân của bi kịch Chí Phèo: từ sự lưu manh, đến quỷ dữ rồi tự tử. Người ta sẽ đổ hết tội lỗi lên đầu kẻ thống trị lõi đời ấy như một bàn tay đã gieo rắc lên số phận con người tất cả cái bi thương ghê gớm của một kiếp sống. Bá kiến bị nguyền rủa, căm hờn và ghê tởm. Bá Kiến là địa ngục giam nhốt những linh hồn tội lỗi. Phê bình văn học theo tinh thần xã hội học đã cơ bản dừng lại ở đó như một kết luận để minh họa cho những lý luận về giai cấp.

2. 

Chúng ta phải nhớ lại rằng, người đầu tiên mang Chí tới cuộc đời này không phải là Bá Kiến, mà rất có thể lại là một người đàn bà “lương thiện” nào đó. Người đàn bà ấy đã chối bỏ hắn và ném vào một chiếc lò gạch cũ bỏ hoang. Rất có thể hắn đã phải chết vì người mẹ của mình nếu không gặp một người đi thả ống lươn nọ. Hắn đã được mang tới cuộc đời này bằng cách ấy. Và sau đó hắn đã được mang “cho”, không phải một người lành lặn, có “điều kiện” để nuôi dưỡng, mà là một bà góa mù, nói cách khác, có thể dân làng Vũ Đại không ai sẵn lòng nuôi hắn để hắn phải trôi vào một xó tối là người đàn bà khốn khổ kia. Và nữa, người đàn bà ấy đã lại bán hắn cho một bác phó cối. Người ta cứ nói rằng, sau này vì đã trở nên tha hóa nên Chí mới bị “cự tuyệt quyền làm người”. Nhưng hình như không phải thế. Dân làng Vũ Đại đã ngay từ ban đầu đã không coi hắn là người, hay ít nhất là cũng chỉ coi hắn như một thứ rơm rác, hay một món đồ có thể bán lấy tiền. Chí đã sinh ra trong một xã hội như thế. Làng Vũ Đại hiện lên bằng cái không khí khô khốc, vô cảm, cái vặn vẹo rời rạc như những ngày gió Lào. Nó gợi một cái gì vừa ảm đạm vừa vô luân trong sự bình yên giả tạo của một thế giới phi nhân và đáng sợ. Chí đã sinh ra và sống trong cái khí quyển ấy, thử hỏi, Con Người nào có thể lớn lên từ mảnh đất gai góc và hoang hóa ấy?

Ngày đầu Chí về làng sau mấy năm đi tù và sau khi uống rượu hắn tới nhà Bá Kiến để gây sự. Hãy xem dân làng Vũ Đại phản ứng ra sao: “trong bụng thì họ hả […] Phen này cha con thằng Kiến đố vác mặt đi đâu […] Người ta tuôn đến xem”. Nhưng khi thấy Bá Kiến về thì “người ta kính cẩn dãn ra”, “chỗ này lạy cụ”, “chỗ kia lạy cụ”. Rồi “người ta dần dần tản đi… vì nghĩ đến sự yên ổn của mình. Ai dại gì đứng ỳ ra đấy, có làm sao họ triệu mình đi làm chứng”. Đấy là phản ứng của dân làng Vũ Đại, hiếu kì, hả hê, hai mặt (trong bụng thì sung sướng vì thấy nhà Bá Kiến bị chửi tung lên, một mặt “kính cẩn” giả tạo), lại thêm thói khôn vặt tiểu nông… Rõ ràng, Chí sinh ra ở làng Vũ Đại, lớn lên ở làng Vũ Đại, trước khi đi tù hắn hiền lành. Nhưng khi về làng dường như hắn chỉ đón nhận tất cả những thái độ như trên. Trong cái làng ấy, hắn không được coi là con người. Và chúng ta có thể đoán rằng, với bất cứ một kẻ nào khác nếu rơi vào những hoàn cảnh đại loại như thể thì cũng sẽ có một cuộc đời lạnh toát như Chí trong cái làng của những người “lương thiện” ấy.

Suốt từ khi sinh ra, lớn lên, đi tù về, dường như chưa bao giờ Chí nhận được tình thương của người làng. Cho đến ngày hắn chết thì… “Cả làng Vũ Đại nhao lên. Có nhiều kẻ mừng thầm. Không thiếu kẻ mừng ra mặt […] Thằng nào chứ hai thằng ấy chết thì không tiếc […] thằng ấy chết, thằng khác còn, chúng mình cũng chẳng được lợi tí gì đâu”. Hoàn toàn không có một chút cảm – xúc - người nào trong dân làng trước cái chết của đồng loại khốn khổ. Họ chỉ có 2 tâm trạng: hả hê và thất vọng. Hả hê vì “hai thằng ấy chết”, thất vọng vì “mình cũng chẳng được LỢI tí gì”. Phải thấy đáng sợ với cái tình trạng ráo hoảnh, vô cảm và phi nhân này trong một xã hội đã “bình yên” ngàn năm sau những lũy tre.

3. 

Tất cả những phân tích trên sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về mối tình Thị Nở - Chí Phèo. Tại sao Chí Phèo thức tỉnh và khao khát trở về với cuộc sống lương thiện sau khi gặp Thị Nở? Chuyện xác thịt không phải yếu tố quyết định. Chính bát cháo mà thị mang cho Chí mới xua đi cơn bệnh u ám trong lòng hắn, cơn bệnh đã ủ suốt hơn bốn mươi năm cuộc đời – Bệnh thiếu vắng tình người. Hãy xem cách Thị Nở chăm sóc hắn: “Thị bỏ vào một cái rổ mang ra cho hắn […] Thị Nở giục hắn ăn đi cho nóng […] Thị Nở đỡ lấy bát cháo và múc thêm bát nữa […] Thị Nở nhìn hắn, lắc đầu thương hại […] Thị vẫn im lặng, cười tin cẩn”. Chính TÌNH THƯƠNG, lòng người và sự chăm sóc của Thị là cơn mưa tưới tẫm tâm hồn một kẻ suốt đời chưa từng biết đến tình người, đã cứu hắn. Bát cháo của Thị Nở là thứ đầu tiên trong cuộc đời mà hắn được “cho không” vì “xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì”. Một con người sống suốt cuộc đời bằng cách bị nhặt được, bị bán đi, bị đi ở hết nhà này đến nhà nọ rồi trở thành một thứ nô lệ trong tay kẻ khác, thử hỏi con người ấy có thể tự ái với cuộc đời?

Một xã hội mà tình người là thứ xa xỉ phẩm, vắng bặt; nó làm thành cái khí quyển khô rát của những cơn gió gió sa - mạc - người đến nỗi chỉ cần vài giọt mưa rớt xuống thì lập tức những hạt giống đã đợi sẵn trăm năm dưới lòng đất khô liền bung mầm lớn dậy. Tình yêu của Chí Phèo đối với Thị Nở đã phản ánh một xã hội đang sợ, cái xã hội mà một con quỷ cũng vụt dậy thành người chỉ cần con quỷ ấy được cho không một bát cháo từ tình thương. Chúng ta hãy nhớ lại, Thị Nở xấu xí đến thế nào, xấu ma chê quỷ hờn. Một “con vật rất tởm” như thế mà cũng khiến Chí Phèo “say” là lý gì? Nó chỉ có thể nói cho ta biết đến chỗ sâu nhất của cơn khát tình người trong một xã hội không có tình người. Một xã hội mà con người sẽ nhào ngay vào nhau, bất kể đó là một “con quỷ” và một “con vật”, khi chúng mang trong mình một chút tình thương dành cho đồng loại.

Chúng ta có thật sự hiểu Nam Cao khi đã đẩy câu chuyện vào vấn đề giai cấp? Không phủ nhận có yếu tố ấy, nhưng chúng tôi cho rằng điều ấy là không chính yếu trong tư tưởng Nam Cao. Ông xứng đáng là nhà giải phẫu học tâm tính Việt; và ông cũng chính là nhà nhân đạo lớn trong một tiếng khóc ròng rã nhưng lặn sâu vào bên trong trước một cộng đồng vô cảm không có chút bóng dáng của tình người. Nỗi khao khát của Nam Cao về một xã hội mà “kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ người khác trên đôi vai của mình”. Và chúng ta sẽ hiểu, tại sao trong truyện của ông, nước mắt lại nhiều đến thế!

Chúng ta hình dung, đến bây giờ, nếu Nam Cao vẫn còn sống và viết thì có lẽ truyện của ông cũng không tươi sáng hơn được. Thậm chí, trong khí quyển nhân tính này, có thể những câu chuyện ấy sẽ nhiều nước mắt hơn những gì ông đã viết cách nay 80 năm.

Thái Hạo
Giá trị tiếng Việt kết nối cội nguồn người Việt khắp nơi
Giá trị tiếng Việt kết nối cội nguồn người Việt khắp nơi

Giá trị tiếng Việt trong tâm hồn người Việt, một lần nữa được nhắc nhớ qua chương trình đặc biệt kỷ niệm Giỗ tổ Hùng Vương trên Nông nghiệp Radio tối nay (18/4).

Giỗ Tổ nhớ 'Cảm tưởng của ta về Hội đền Hùng' của cụ Dương Bá Trạc
Giỗ Tổ nhớ 'Cảm tưởng của ta về Hội đền Hùng' của cụ Dương Bá Trạc

Nhà báo, nhà văn Dương Bá Trạc (1884-1944), hiệu Tuyết Huy, là anh trai của nhà giáo Dương Quảng Hàm. Cụ cùng các chiến sĩ đã sáng lập phong trào Đông Kinh nghĩa thục.

Đại tá Nguyễn Văn Hồng và cuộc chiến đấu tự nguyện bên trang viết
Đại tá Nguyễn Văn Hồng và cuộc chiến đấu tự nguyện bên trang viết

Đại tá Nguyễn Văn Hồng sau 30 năm cầm súng lại có tiếp 30 năm cầm bút, đó là nội dung tọa đàm văn chương diễn ra sáng 12/4 tại TP.HCM.

Trống quân: Tinh hoa người Đức Bác
Trống quân: Tinh hoa người Đức Bác

Hát trống quân Đức Bác là sự kết hợp giữa lời hát và nhịp điệu, cùng với những khúc hát sôi động xoay quanh các chàng trai Đức Bác và cô đào Phù Ninh.

Tiến sĩ Bùi Bá Bổng chữ đã say rồi trên những trang thơ
Tiến sĩ Bùi Bá Bổng chữ đã say rồi trên những trang thơ3

Tiến sĩ Bùi Bá Bổng thường được nhiều người biết đến với tư cách một nhà khoa học nông nghiệp, nhưng ít ai biết ông từng có thơ được in từ thời sinh viên.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hé lộ điều gì qua những đoản văn?
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hé lộ điều gì qua những đoản văn?

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã rời khỏi dương gian 23 năm, nhưng di sản nghệ thuật của ông vẫn không ngừng lôi cuốn công chúng, trong đó có những đoản văn tự tình.

Thái độ của vua - tôi triều Nguyễn đối với Phan Châu Trinh sau ‘Thư thất điều’
Thái độ của vua - tôi triều Nguyễn đối với Phan Châu Trinh sau ‘Thư thất điều’

Việc ứng xử như sách đã chép ít nhiều thể hiện sự tôn trọng đáng kể, dù 'Thư thất điều' đã khiến vua Khải Định bẽ mặt với quốc dân đồng bào ở trong và ngoài nước lúc đó.

Hà Giang hút khách
Hà Giang hút khách

Thị trấn Đồng Văn giờ khác lắm. Cầu trời, năm mười năm nữa, Đồng Văn sẽ không theo bước Tam Đảo, Sa Pa, nhà tầng chất ngất cướp mất dáng núi, thung mây...

Về một bản dịch ‘Thư thất điều’ của cụ Phan Châu Trinh
Về một bản dịch ‘Thư thất điều’ của cụ Phan Châu Trinh

Trong bài văn tế Phan Châu Trinh, Sào Nam Phan Bội Châu đánh giá 'Thư thất điều đón giá như Tây, uy sấm chớp chẳng kinh cùng chẳng hãi'.

Cửa Đạt và Cửa Đặt: Chuyện nhỏ hay không nhỏ?
Cửa Đạt và Cửa Đặt: Chuyện nhỏ hay không nhỏ?

Hãy phóng to bức hình này lên, sẽ thấy hai cái tên khác nhau: Bên này là đền “Cửa Đặt”, bên kia là chùa “Cửa Đạt”. Đặt và Đạt, có liên hệ/liên quan gì không?

Giáo sư Andrea Hoa Pham: 'Ngôn ngữ luôn biến đổi'
Giáo sư Andrea Hoa Pham: 'Ngôn ngữ luôn biến đổi'1

Một người dạy tiếng Việt ở Mỹ, giáo sư Andrea Hoa Pham cho rằng, ngôn ngữ luôn luôn biến đổi, dù muốn hay không cũng không ngăn được thực tế ấy.

Cảm nhận một người trẻ tuổi về kháng chiến qua phim Đào, phở và piano
Cảm nhận một người trẻ tuổi về kháng chiến qua phim Đào, phở và piano

Bộ phim đã khiến tôi tò mò và tôi đã tìm hiểu rộng hơn lịch sử đất nước và tinh thần chiến đấu của chiến sĩ, nhân dân ta trong kháng chiến.