Nhà thơ Mai Thìn sinh năm 1965, hiện đang đảm nhiệm cương vị Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bình Định. Ông đã xuất bản các tác phẩm “Cổ tích tình yêu”, “Ðồng quê”, “Lặng lẽ xanh”, “Thiên đường thơm rèm cửa nhà mình”, “Tiếng chim về cũ”... Tập thơ mới nhất của nhà thơ Mai Thìn do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành, có tên gọi “Tiếng của thiên lương”.
Sinh thời, Cao Bá Quát từng cho rằng: “Người đẹp không ở áo/ Thơ hay thường ít lời”. Có thể hiểu: Đối với một con người, cái đẹp không quá phụ thuộc vào vỏ bọc, vào cái bên ngoài, tương ứng với câu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Còn thơ hay thì nên cô đọng, khúc chiết, tránh dài dòng, tản mát, rườm rà. Trong đó, tránh nhất là nhiều lời ít ý hoặc nhiều lời mà không có ý gì. Nói một cách khác: Tránh nhất là chỉ có hình thức, mà không có nội dung, tư tưởng.
Cũng không ít người, thường chọn một cách nói trực tiếp mà vẫn thơ, mà vẫn chất chứa, đầy hàm ý. Thế kỷ 14 - 15, trong “Mạn thuật 8”, Nguyễn Trãi viết: “Thân đà hết luỵ thân nên nhẹ”. Giữa đầu thế kỷ 20, B. Brecht trong “Mặt nạ kẻ ác”, viết: “Làm kẻ ác vất vả vô cùng”. Tất nhiên, cách nói trực tiếp thường không dễ làm và cũng không dễ thuyết phục độc giả, nếu như người viết không có trải nghiệm độc đáo, sâu xa, khác người.
Tôi đã nghĩ như vậy sau khi đọc “Tiếng của thiên lương” của nhà thơ Mai Thìn. Tập thơ lôi cuốn người đọc bởi một lối viết coi ý tứ là trọng, coi tổng thể nặng hơn chi tiết và rất nặng lòng trước thế thái nhân tình. Không những thế, người viết còn có chính kiến một cách nhất quán, bản lĩnh và rất có trách nhiệm trước cuộc sống. Sau nữa, thơ trong “Tiếng của thiên lương” trăn trở, lật xoay trong tâm thế xa xót, đau đớn, mang giá trị cảnh báo và luôn hướng về thiên lương.
Những vần thơ trong tập rất gần gũi đời sống và cũng rất hữu ích. “Gần gũi đời sống” đã khó. Hữu ích với đời sống, xem ra còn khó hơn nhiều. Nhiều bài trong tập có tứ và người viết đã đoạt tứ rất nhanh, hấp dẫn người đọc ngay từ khi mở ra cho đến khi khép lại. Có thể kể tên: “Bướm”, “Hoa giả hoa thật”, “Lưỡi”, “Mất bóng”, “Tìm mặt”...
Đó là “Bướm” với “mỗi ngày co lại một ít/ chịu đựng một ít/ làm con sâu cái kén quấn kèn/ co/ co mãi/ đến ngày lột xác/ bướm bay lên/ choán một khoảng trời”. Nhìn một vật bình thường mà phát hiện ra khác thường như thế thì thật là lạ! Chính sự “mỗi ngày co lại một ít/ chịu đựng một ít...” mà có ngày mới “bay lên/ choán một khoảng trời”.
Đó là “Mất bóng” với: “vì không muốn làm/ cái bóng của mặt trời/ vầng trăng/ cứ ngày đêm cách biệt// vậy mà nhiều người/ dựa hơi kẻ khác/ xun xoe, khoác lác/ đến nỗi/ bóng của mình/ cũng bỏ đi”. “Dựa hơi kẻ khác” đến nỗi đánh mất chính mình, không còn là chính mình, để “mất bóng” thì thật đáng sợ và liệu có nỗi sợ nào đáng sợ hơn?
Đó là “Để tìm đến sự thật” với “những cây kim/ ròng máu/ tự chui qua lỗ kim/ để tìm đến sự thật”. Đây là những câu thơ lạ. Tìm đến sự thật, tìm ra sự thật quá khó. Đó là một hành trình đớn đau ngỡ khó đớn đau hơn, xa xót ngỡ khó xa xót hơn. Ở một chừng mực nào đó, còn khó hơn cả “mò kim đáy bể”. Và còn có một nỗi khó khác, một nỗi khổ khác, đó là tìm mặt mình "không còn nhìn thấy/ sau mấy chục năm lớn khôn thành đạt/ anh tuyệt vọng tìm gương mặt mình/ trong vô vàn không thật"
Cũng nói về cái giả - cái thật, Mai Thìn luận về hoa giả hoa thật với những câu thơ thật thấm thía “cùng màu sắc ấy/ cùng thanh tao ấy/ sờ vào cũng thấy mát/ chạm vào cũng mượt mềm// chỉ khi rũ tàn/ mới biết là hoa thật// hoa thật thì vài hôm/ còn hoa giả/ cứ mãi”
Đó là tính về những bài hay ở tứ. Còn hay về ý, “Tiếng của thiên lương” có nhiều câu ấn tượng, giàu triết lý, giống như những chiếc đinh được đóng vào trí nhớ. Có thể thống kê: “Cái xấu màu mè hơn cái tốt” (Nhủ với các con), “Cuộc sống/ ngày càng văn minh/ những chiếc khóa/ càng trở nên vi diệu” (Những chiếc khóa), “Tiền không thể nào mua được/ bông hoa lương thiện ở trong đời” (Tiền), “Trọn một vai đời/ kèn trống/ mướt mồ hôi” (Xem hát bội ở đền thờ Đào Tấn), “Phố phường muôn nẻo/ mang cả quê nhà/ một tiếng rao” (Tiếng của quê hương), “con người/ khô bao nước mắt/ để thành những đám mây/ trôi/ trong hư vô” (Hỏi), “lưỡi con người/ mềm/ mà bén thế” (Lưỡi)...
Hẳn phải có con mắt khác lạ, Mai Thìn mới có cách nhìn khác lạ từ những “chú rùa/ chọc vỡ bầu trời quả trứng/ khám phá một bầu trời khác/ tự do/ cùng rủi ro hơn” để thấy và liên hệ với: “con người/ loay hoay/ chọc vỡ bầu trời của mình/ đi tìm bầu trời khác/ nở/ những mùa sinh tuyệt chủng”?
Hẳn phải có một trái tim chan chứa yêu thương đích thực, Mai Thìn mới “đốt lên mùa xuân từng có được” với “nỗi đau/ tình yêu/ cùng cái chết”, một cách “đốt lửa để tìm lửa” hy vọng “tìm lại ngọn lửa nồng trong chúng ta” đó là niềm tin.
Nhà thơ Mai Thìn chỉ ra bi kịch của sự đóng kín, khép kín của người phố (so với quê) đau xót đến nỗi, đến mức “kết nối với bên ngoài/ là/ con chó/ sủa liên hồi/ mỗi lúc có người qua”. Và mọi thứ đều có nguyên nhân của nó, đều từ lòng người “xa hay gần/ gần hay xa/ do lòng người/ mà ra vậy”.
Nhưng bao trùm lên tập thơ “Tiếng của thiên lương” là cuộc đối kháng không ngừng, không nghỉ trước cái giả dối, cái ác, cái xấu xa, cái tuyệt vọng... một cách bền bỉ, thường trực. Ở đấy, dường như ngày nay, con người ta phải đối mặt với cái nguyên khí đã mất và niềm tin đổ vỡ. Có thể tìm thấy những ý lớn này trong “Bài ca đưa linh”, “Cái ác cỏ dại, cái ác lang thang”, “Cây cầu và dòng sông”, “Những con chim bị khâu mắt”, “Mồ côi”, "Đói những yêu thương"...
Cuộc đối kháng này được Mai Thìn ví như những quả bom thời bình. Ở nơi ngỡ như không có tiếng súng, chúng được cài sẵn. Một sự nguy hiểm rất tiềm tàng luôn sẵn sàng xuất hiện. Đây là những câu thơ mang giá trị cảnh báo rất cao “thế hệ chúng tôi/ không có chiến tranh/ những quả bom cài sẵn/ trong mỗi bước đi/ trong từng giấc ngủ/ hôm nào cũng thương vong/ bao con số xếp hàng/ nhan nhản trên mặt báo”.
Còn con người thì phải đi tìm niềm tin đã mất, đến nỗi có lúc phải thốt lên “ôi trái tim của tôi/ trái tim lơ ngơ/ bên bờ sạt lở”. Mặc dầu vậy, Mai Thìn vẫn làm thơ. Bởi “làm thơ” chính là “làm người”, không đơn thuần “thơ là người” như con người lâu nay thường nghĩ thế và anh khẳng định: “Làm thơ/ cũng khó như làm người” vậy! Bởi vì thơ chính là “Tiếng của thiên lương”.