Thái độ của vua - tôi triều Nguyễn đối với Phan Châu Trinh sau ‘Thư thất điều’

Nguyên Phong - Thứ Hai, 25/03/2024 , 15:30 (GMT+7)

Việc ứng xử như sách đã chép ít nhiều thể hiện sự tôn trọng đáng kể, dù 'Thư thất điều' đã khiến vua Khải Định bẽ mặt với quốc dân đồng bào ở trong và ngoài nước lúc đó.

Phan Châu Trinh (1872 - 1926)

Bài liên quan

Thư thất điều” do chí sĩ Tây Hồ Phan Châu Trinh kí gửi đi ngày 15/7/1922 đã vạch ra 7 tội của vua Khải Định với lời lẽ đanh thép, thẳng thắng vạch trần những tội mà vị vua này đã gây ra. Nhiều ý kiến cho rằng vua tôi nhà Nguyễn lúc đó, đứng đầu là vua Khải Định sẽ lờ bức thư này đi hoặc giả sẽ có một cuộc trả thù đẫm máu với cụ Phan Châu Trinh? Lần giở trang sử triều Nguyễn chúng ta thấy không hẳn như vậy.

Trước hết, cần nói rằng Hoàng đế Khải Định là người có đường lối thân Pháp ngay từ trước khi lên ngôi đến khi băng hà (năm 1925). Quan điểm đó được thể hiện ở lời Dụ ngay khi Khải Định vừa lên ngôi năm 1916.

Theo “Đồng Khánh Khải Định chính yếu” (NXB Thời đại, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, HN 2010. Nguyễn Văn Nguyên dịch) năm 1916, Hoàng đế Khải Định Dụ cho thần dân 3 lí do cần phải có Đại Pháp bảo hộ, đó là: “Nước ta sở dĩ không thể thiếu được quý bảo hộ đại khái bởi ba nhẽ. Hiện thời phong trào văn minh ở mọi miền đất đang lên đến cực điểm. Những nước đông dân lắm của đang hăng hái đua nhau tranh giành quyền lợi trên vũ trường. Nước ta nghèo khổ đã lâu, chân nguyên còn chưa phục hồi, liệu có thể đương đầu được không? Đó là một nhẽ. Người châu Âu bản tính can đảm, nhiệt thành, mỗi khi bị ngoại bang khinh rẻ chèn ép thì sẵn sàng xả thân chiến đấu. Trong khi người Nam ta tính khí vốn mềm yếu, nhân tâm chẳng còn được thuần phác như xưa, như thế liệu có thể bảo vệ cương thổ của mình được chăng? Đó là nhẽ thứ hai.  Đất đai có nhiều tài nguyên mà không biết làm cho sinh lợi, người đông có dư sức mà lại không tính về các mẹo mực làm ăn, cứ cắm cúi vào làm mà thiếu hiểu biết. Quý bảo hộ mà không chế tạo ra xe cho người Nam thì liệu ta có tự hiểu được nguyên lí cách thức hay không? Đó là nhẽ thứ ba”.

Và tháng 3/1922, Khải Định “ban dụ về việc ngự giá qua Tây để tỏ rõ tình nghĩa giao hảo giữa hai nước Pháp - Nam và mừng vũ công cáo thành” (Theo Đại Nam thực lục Chính biên đệ thất kỉ. Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu. NXB Văn hóa Văn nghệ 2012).

Tuy nhiên, đối với cá nhân Phan Châu Trinh, kể từ sau “Thư thất điều” gửi đến tay Khải Định, vị vua này có những quan điểm và nhận định không giống với những quần thần xung quanh. Sách “Đại Nam thực lục Chính biên đệ thất kỉ” có ghi chép về việc này.

“Tháng 9 (tức là thời gian sau khi Khải Định đã từ Pháp về Việt Nam được 1 tháng), vua nhân cùng các địa thần bàn tới ý nghĩ việc làm của Phan Châu Trinh (Châu Trinh người Quảng Nam, đỗ phó bảng can án phát phối Côn Lôn, mãn hạn xin cư trú ở nước Pháp sinh sống. Lúc bấy giờ vua ngự giá tới đô thành nước Pháp, Châu Trinh có đưa thư tới trước ngự tiền, lời lẽ phần nhiều ngông cuồng bậy bạ). Nguyễn Hữu Bài tâu: Châu Trinh hôm nay đã thành gã ngốc rồi. Trước đây y gửi thư cho chính phủ Đại Pháp thì lời lẽ còn gần có lí, đến nay thì quá ngông cuồng khích động. Thử xem lời y đại để chuyên nói tới việc xây cất, tuy như gần đúng nhưng so với chi phí xây dựng không biết bao nhiêu mà kể của liệt cường văn minh thì việc xây dựng ở nước ta thua kém rất nhiều, lời lẽ của Châu Trinh đề là lời ngớ ngẩn. Vua Khải Định nói: Cần gì so đo với y. Nhưng từ việc xây dựng tầm thường ở nước ta mà nói, tức như nhà ngục Thanh Hóa dự trù tới 120.000 đồng thì các khoản khác nên làm thì làm, có gì là xây cất”.

Tiếp sau đó, “Đại Nam thực lục Chính biên đệ thất kỉ” ghi lời tâu của Thượng thư bộ hình Tôn Thất Hân: Thần cùng các quan đã khẩn thiết nói về việc Châu Trinh với Khâm sứ đại thần, lại bàn xin đề đạt với triều đình nước Pháp có cách xử trị. Vua Khải Định nói: “Cần gì như thế. Đại khái lời y nói không trúng nhưng cũng không sai lắm, về phía ta phải hết sức làm những việc cần làm mà thôi. Nếu vì lời lẽ mà bắt tội thì Thủ tướng Poincaré ở Pháp sẽ bị họ cùng công kích chỗ yếu, báo chí hàng ngày xúm vào thì làm sao có thể nhất nhất bắt tội. Huống hồ kẻ công kích không dùng lời nhọn mà dùng dao sắc, như Nga hoàng Nicolai II còn làm gì chuốc oán đâu? Chỉ vì quan tướng chuốc oán mà quốc quân gặp nạn thì làm sao được? Vả lại, Châu Trinh mệt mỏi về việc nước, y dự liệu ngược rằng tương lai tộc loại sẽ có ngày gặp sự khốn khổ lớn nhưng tính toán mà không biết làm sao, dần dần đến nỗi đầu óc tối tăm, rơi rụng thành gã khùng. Huống hồ những người y ngao du ở nước Pháp phần nhiều là kẻ ở tầng lớp dưới, kiến thức nghĩ chắc cũng tầm thường không đáng đếm xỉa… Lúc trẫm hồi loan Bộ Thuộc địa Pháp bàn bắt Châu Trinh nhưng trẫm không nghe”.

Trong lời thoại này của vua Khải Định, bỏ qua những ngôn từ kém hòa nhã thì có 2 điểm cần chú ý: Một là Khải Định đã đọc và suy nghĩ rất kĩ về “Thư thất điều” của Phan Châu Trinh, qua đó mới kết luận nội dung bức thư đó “không đúng nhưng cũng không sai lắm” và đặt ra câu chuyện cho Triều đình là “về phía ta ta phải hết sức làm những việc cần làm mà thôi”. Điều đó có nghĩa, Khải Định không phản bác hoàn toàn nội dung bức thư và dường như 7 tội mà cụ Phan Châu Trinh vạch trần Khải Định cũng làm cho vị vua này phải suy nghĩ mà tính chuyện làm sao để “hết sức làm những việc cần làm”, cố gắng làm cho công việc được tốt hơn. Hai là Thư thất điều đã làm Khải Định phải suy nghĩ rất nhiều về cá nhân nhà vua cũng như về chí sĩ Phan Châu Trinh, dù không nói ra nhưng rõ ràng Khải Định cũng đã “soi mình” được rất nhiều khi xem bức thư đó. Và theo logic suy luận thì Khải Định tuy không vui vẻ vì những lời “trung ngôn nghịch nhĩ” nhưng trong lòng cũng hết sức kính trọng và nể phục Phan Châu Trinh, cho nên mới có hành động không đồng ý cho Bộ thuộc địa Pháp lúc đó bắt Phan Châu Trinh: “Lúc trẫm hồi loan Bộ Thuộc địa Pháp bàn bắt Châu Trinh nhưng trẫm không nghe”. Đặt một giả thiết, nếu vua Khải Định nhỏ nhen, cay cú, thù oán Phan Châu Trinh mà để Bộ Thuộc địa Pháp bắt Phan Châu Trinh lúc đó thì lịch sử sẽ có những dữ liệu khác và cụ Phan sẽ không còn được về nước để diễn thuyết và hoạt động nữa.

“Đại Nam thực lục Chính biên đệ thất kỉ” chép lời Thượng thư bộ học Thân Trọng Huề để khẳng định thêm ngầm ý của vua Khải Định: “Khâm sứ đại thần cũng nói Châu Trinh ngông cuồng bậy bạ nhưng ý vua muốn biểu lộ sự khoan hồng mà thôi”.

Cuối cùng, vua Khải Định kết luận: “Đặt chân tới nước Pháp thì phải nghiên cứu duyên do nước ấy được văn minh, e không phải dễ. Thử theo quan sát bề ngoài mà lấy kiến trúc to lớn làm văn minh chăng, hay lấy việc chế tạo đẹp đẽ làm văn minh chăng? Đều là sai cả. Đại khái Đại Pháp văn minh đại thể có hai điều, một là người ở tầng lớp trên kính giữ pháp luật, hai là người ở tầng lớp dưới đều biết bổn phận. Xem ở đô thành Paris dân chúng phần lớn đều kính giữ kỉ cương, người nghèo khổ cũng coi việc trộm cắp tiền bạc hàng hóa của kẻ khác là điều nhục nhã, nên trên đường không nhặt của rơi. Từ đó nghiệm mà biết việc giáo dục của nước ấy rộng rãi lâu xa”.

Có thể nói, “Thư thất điều” của cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh không chỉ gây tiếng vang trong dư luận xã hội lúc đó, mà còn làm cho vua - tôi triều Nguyễn lúc đó phải suy ngẫm. Với vua Khải Định, căn cứ theo những gì “Đại Nam thực lục Chính biên đệ thất kỉ” chép, thì rõ ràng chuyến đi Pháp năm 1922 đã mở mang cho vị hoàng đế này rất nhiều. Cùng với đó, việc ứng xử với cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh như sách đã chép ít nhiều thể hiện được sự thay đổi tích cực và dành cho cụ Phan Châu Trinh một sự tôn trọng đáng kể, dù “Thư thất điều” đã khiến vị vua này bẽ mặt với quốc dân đồng bào ở trong và ngoài nước lúc đó.

Nguyên Phong
Tin khác
Tác giả trẻ có tiểu thuyết lịch sử được xuất bản tại Ý
Tác giả trẻ có tiểu thuyết lịch sử được xuất bản tại Ý

Tác giả trẻ Võ Chí Nhất vừa có tiểu thuyết lịch sử ‘Hoàng cung’ được Nhà xuất bản Fiori D'asia Editrice dịch và in tại Ý, với nhan đề ‘Palazzo reale di Thang Long’.

Có một người tu hành như thế
Có một người tu hành như thế

Nhà văn Hồ Thị Ngọc Hoài: 'Có một người đã tu hành như thế và đã truyền cảm hứng sống tốt lành đến nhiều người'.

Lục bát thiền trong miền đồng điệu và đồng cảm thi ca
Lục bát thiền trong miền đồng điệu và đồng cảm thi ca

Lục bát thiền là nét đặc trưng cơ bản được tác giả Trần Lê Khánh chắt chiu thể hiện qua tập thơ ‘Đồng’ do Nhà xuất bản Văn Học ấn hành.

Hai người họ Tô giữa tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh
Hai người họ Tô giữa tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh

Hai người họ Tô là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Tô Quyền và Nghệ sĩ Nhân dân Tô Lan Phương xuất hiện trong ‘Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh’.

Nhà văn Y Ban đã thấy gì trên đỉnh giời?
Nhà văn Y Ban đã thấy gì trên đỉnh giời?

Nhà văn Y Ban tiếp tục khẳng định một giọng nữ đặc sắc trong đời sống văn chương Việt Nam, bằng tập truyện ngắn có tên gọi ‘Trên đỉnh giời’.   

Cựu chiến binh hồi tưởng mặt trận gần phía trước
Cựu chiến binh hồi tưởng mặt trận gần phía trước

Cựu chiến binh Trần Trí Thông gửi gắm niềm riêng qua trường ca ‘Mặt trận gần phía trước’ phát hành đúng dịp kỷ niệm 80 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.

Nhà văn Anh Đức trong ký ức đồng nghiệp thế hệ sau
Nhà văn Anh Đức trong ký ức đồng nghiệp thế hệ sau

Nhà văn Anh Đức được hậu sinh nhắc đến một cách trân trọng tại hội thảo kỷ niệm 10 năm ông qua đời, vừa tổ chức sáng 18/12 ở TP.HCM.

Tác giả trẻ My Tiên và vùng da thiêng nhiều cảm xúc
Tác giả trẻ My Tiên và vùng da thiêng nhiều cảm xúc

Tác giả trẻ My Tiên ở đất võ Bình Định vừa ra mắt tập thơ ‘Vùng da thiêng’ với nhiều cảm xúc nồng nàn về quê hương và con người Nam Trung bộ.

Mạch nha Thi Phổ
Mạch nha Thi Phổ

Làng Thi Phổ thuộc huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, là nơi sản xuất loại mạch nha thơm ngon nổi tiếng trong cả nước, gọi là 'mạch nha Thi Phổ'.

Tác phẩm Hồ Biểu Chánh vẫn được công chúng đón nhận
Tác phẩm Hồ Biểu Chánh vẫn được công chúng đón nhận

Tác phẩm Hồ Biểu Chánh không chỉ được chuyển thể thành phim truyền hình và phim điện ảnh, mà còn liên tục tái bản với số lượng lớn để phục vụ độc giả.

Khảo cứu: Bài thơ 'Bán than' không phải của Trần Khánh Dư
Khảo cứu: Bài thơ 'Bán than' không phải của Trần Khánh Dư

Trong 'Quốc văn trích diễm', giáo sư Dương Quảng Hàm trích bài thơ 'Bán than' và cho là của Trần Khánh Dư. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tác giả là người khác.

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đậm đà cốt cách Nam bộ
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đậm đà cốt cách Nam bộ

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, tác giả được giải thưởng Hồ Chí Minh, được hậu sinh kỷ niệm 10 năm ông đi xa, bằng một hội thảo tổ chức tại TP.HCM sáng 6/12.