“Thức dậy một dòng sông” là tập thơ thứ hai của Trần Nam Phong, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh, “Thức dậy một dòng sông” gồm 3 phần: “Làng”, “Trong từng khoảnh khắc” và “Sông thức” được gắn kết trong một chỉnh thể nghệ thuật từ cảm nhận, suy tưởng đến biểu hiện bởi ngôn ngữ thi ca chọn lọc, bởi hình thức thể loại phù hợp. Có thể nhận ra “sở trường” trong bút pháp Trần Nam Phong là thể loại lục bát.
Đa phần trong tập “Thức dậy một dòng sông”, đặc biệt là phần “Làng”, Trần Nam Phong sử dụng lục bát như một cảm thức tự nhiên, xui anh tìm đến “lời ăn tiếng nói” của nguồn cội. Đối tượng ấy, ngôn ngữ ấy là phù hợp. Và lựa chọn ấy, chắc chắn không ngẫu nhiên. Hãy nghe anh nói về tuổi thơ: “Thị vàng thơm tận giấc mơ/ Hội làng cô Tấm cài nơ hoa cà/ Đang đêm vọng tiếng tù và/ Hình như phía bụi tre ngà trổ măng”.
Những thị vàng, cô Tấm, hoa cà, tù và, tre ngà… như thể “định vị” cho thời gian: xa xưa, cho không gian: thôn làng…, mà bất cứ ai khi đọc lên cũng được đánh thức gốc gác quê kiểng cùng với ký ức tuổi thơ của mình. Cũng như cặp đôi này: “Rưng rưng tay bí, tay bầu/ Nhớ quê xin bắc nhịp cầu thăm quê”. Một nỗi “nhớ quê” gắn với tay bí, tay bầu là nhắc tới một thời khắc gian nan hằn sâu trong ký ức mỗi người: tháng ba giáp hạt “ngoài đồng vàng mơ, trong nhà mờ mắt” ở mỗi thôn làng ngày xưa.
Thơ Trần Nam Phong không chỉ nhắc ta những kỷ niệm gian nan kia. Thơ anh còn là tâm sự của một người con đi xa, luôn nặng lòng với quê, luôn khắc khoải vì quê, luôn muốn tìm về quê: “Trăm năm hoa cỏ hồn nhiên/ Nghìn năm mây trắng về miền hanh hao/ Triệu năm lơ lửng trăng sao/ Một ngày sống với nôn nao một ngày” hoặc “Trong veo rút ruột vòm trời/ Nhuộm xanh vạt áo bao người tha phương/ Nửa đời về lại cố hương/ Bóng mây còn nhắc con đường ngày đi”.
Nói Trần Nam Phong là cây bút “nặng lòng” với quê là vì nỗi nhớ quê trong thơ anh rất cụ thể, là nhớ mẹ, nhớ bà, nhớ gương mặt với niềm rung cảm thầm kín đầu đời, nhớ những “dại khôn” một thuở: “Ngày xưa có mẹ có bà/ Có cô hàng xóm vì ta mà buồn”.
Anh khắc ghi và cất giữ những hình ảnh thân thương ấy, những gì góp phần làm nên thế giới tinh thần phong phú của anh, là hành trang, vốn liếng của ngòi bút anh, nó ẩn sâu trong tâm hồn, và mỗi khi cần đến bút mực, như thể vọng đến từ đâu đó trong thẳm sâu ký ức những vần điệu “sáu tám” hiện về, câu chữ cứ thế tự nhiên trôi chảy như không cần phải nghĩ ngợi gì nhiều. Những lúc như vậy, hình như có một chàng trai trẻ đa tình, đa cảm hiện lên trong dáng vẻ hiền hậu, đăm chiêu, yên lặng, hướng nội thường thấy nơi anh.
Không chỉ là những ký ức về làng quê, về thuở thiếu thời, thơ Trần Nam Phong còn là những trải nghiệm, chiêm nghiệm về thế thái nhân tình của một người luôn trăn trở, nghĩ ngợi về lẽ đời, về con người, về nỗi làm người. Thơ anh có sự từng trải “Nắng cứ nắng. Mưa cứ mưa. Và gió/ Mặc đời người kiếp kiếp tựa thoi đưa” nhưng không để mất đi cái tha thiết tươi xanh trong tâm hồn. Đó chính là phẩm chất cần có của một người làm thơ: “Có chút nắng để nhớ/ Có chút mưa để chờ/ Đêm tháng ba cỏ mật/ Đưa anh về miền thơ”.
Sự từng trải đó như một thứ năng lượng, tự nó làm hình thành ý niệm như một thứ triết lý tự nhiên của quá trình sống, không lên gân, điệu đà, không thuyết giáo sách vở, chỉ như là những lời tự rút ra, tự nhắc mình, nhưng lại có sức lay thức, lan tỏa: “Nước nghẹn chân cầu/ Ta dắt tay nhau qua nhịp đời sinh tử/ Nước âu lo phận nước/ Mặc chân trời rộng rãi cánh chim/ Mưa rút ruột trời/ Chẳng lấp nổi đáy tham trần thế/ Mưa ơi có hay/ Khổ đau đã thành sông bể”.
Không dừng lại ở sự “chiêm nghiệm và lo âu”, Trần Nam Phong đem đến cho bạn đọc niềm lạc quan của một ngòi bút với tinh thần công dân luôn hướng đến sự tích cực của đời sống. Dù “Đã lâu chẳng nghe chim hót/ Màu hồng trên má em phai”, nhưng anh có trong tay năm tháng ngỡ giấc mơ “Tình yêu đã đi qua mưa nguồn chớp bể/ Có một bông hoa giữa đời lặng lẽ/ Đến bên anh và kết hạt mùa màng”. Anh muốn vượt thoát những “vân vi”, “ngổn ngang thế sự” đời thường, muốn đạt đến sự bình thản, lương thiện giữa cõi người: “Những mong đời mình không mang nghiệp ác/ Lặng lẽ hoa kết hạt mùa màng”
Có được những phẩm chất ấy trong thơ vì người viết đã từng chứng kiến những gian nan mà anh đã trải qua. Đất nước những tháng năm nhọc nhằn bao nhiêu người trẻ tuổi lang bạt tha phương kiếm sống: “Bạn chài xa cách từ lâu/ Bỏ quê làm thợ bên Tàu, bên Tây”. Tuy có được miếng cơm manh áo trước mắt, nhưng cái giá phải trả không hề nhỏ khi tình xưa nghĩa cũ hao gầy, mới chợt nhận ra “Đời người mưa nắng nhục vinh/ Bạn tôi hóa cát trắng tinh bến bờ”.
Để vượt lên những bi kịch này, Trần Nam Phong có những câu thơ làm sống lại ký ức về những năm tháng nhọc nhằn của dân tộc: “Em có thương cây đèn dầu một thuở/ Mái tranh nghèo bao ngôi nhà ấm lửa”. Trước dòng kênh Nhà Lê, Trần Nam Phong đi từ cụ thể đến khái quát: “Sức vóc của cha ông/ Hóa dòng sông khát vọng”. Anh gieo niềm lạc quan khỏe khoắn vào câu chữ: “Sông có mạch nguồn/ Có buồn vui đến ở/ Chim biết chọn cây, cá quẫy theo dòng/ Người chọn cánh buồm cùng bạn vượt sông”. Điều này cho thấy tinh thần công dân thường trực trong ngòi bút của Trần Nam Phong.
Tác giả Trần Nam Phong sinh ra tại vùng đất chân Đèo Ngang, Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Đây là vùng đất phên dậu của xứ Đàng Ngoài, chứng kiến biết bao cảnh binh đao, tao loạn dằng dặc qua các triều đại phong kiến Việt Nam, chứng kiến biết bao cuộc vào Nam ra Bắc của sỹ phu cả nước, để lại trong văn thơ những tâm thế xót xa “nhớ nước thương nhà”. Người xưa vậy, người hôm nay cũng vậy, một nỗi niềm nơi biên ải tưởng không bao giờ xưa cũ: “Con đã qua Đèo Ngang nghe thơ bà Huyện/ Ngắm ngàn mai mỏi cánh chim bay/ Đa đa gáy tím chiều biên ải/ Cuốc gọi hồn tê tái cỏ cây”
Thơ Trần Nam Phong thường vậy, không chỉ miêu tả thiên nhiên, mà mượn thiên nhiên để nói tâm thế của người làm thơ, tâm thế tĩnh lặng, hòa hợp, cộng cảm, hướng thiền, gợi lên khát vọng sáng tạo: “Tôi sẽ nhận cùng em hoa cúc/ Nhớ thương nào thắm lại những ngày ngâu/ Mưa ướt áo, thu mới về một nửa/ Buổi chiều đi vời vợi cánh buồm nâu”.
Chúng ta có thể cảm nhận được “Thức dậy một dòng sông” là tập thơ có nhiều cung bậc. Nó chứng tỏ bút pháp của tác giả Trần Nam Phong với những nét riêng được hình thành bởi một nội lực phong phú, một tâm hồn đa cảm và nhạy cảm. Người làm thơ thì nhiều, nhưng để thơ gây được ấn tượng với người đọc thì không nhiều. Những gì tác giả Trần Nam Phong đem đến trong “Thức dậy một dòng sông” rất đáng được ghi nhận.