Cách đây 65 năm, từ yêu cầu của thực tế sản xuất, từ những vấn đề bức xúc về khoa học và kỹ thuật trong xây dựng thủy lợi, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập Học viện Thủy lợi với chức năng vừa đào tạo cán bộ vừa nghiên cứu khoa học, từ đó mở ra một trang sử mới cho sự nghiệp xây dựng và phát triển rất vẻ vang của ngành Thủy lợi Việt Nam.
Cuối năm 1960, Đại hội đại biểu Đảng Lao động Việt Nam đã định ra đường lối xây dựng Xã hội Chủ nghĩa ở miền Bắc và kế hoạch xây dựng phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất 1961-1965. Công tác thủy lợi được coi là biện pháp hàng đầu để phát triển sản xuất nông nghiệp.
Bộ Thủy lợi được sáp nhập thêm Tổng cục Điện lực (nguyên thuộc Bộ Công nghiệp nặng) và đổi tên thành Bộ Thủy lợi và Điện lực. Học viện Thủy lợi cũng được đổi tên thành Học viện Thủy lợi và Điện lực. Ông Trần Đăng Khoa, nguyên Bộ trưởng Bộ Thủy lợi được cử làm Phó Chủ tịch Quốc hội và được Chính phủ bổ nhiệm kiêm Giám đốc Học viện Thủy lợi và Điện lực. Đến ngày 9/5/1963, Viện Khoa học Thủy lợi và Trường Đại học Thủy lợi tách ra, ông Trần Đăng Khoa tiếp tục kiêm nhiệm Giám đốc Viện Khoa học Thủy lợi.
Năm 2007 Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam được thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Viện được xếp hạng đặc biệt theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về phân loại, xếp hạng các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công.
Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam là cơ quan tham mưu chính cho Bộ NN - PTNT về chiến lược, các chương trình trọng điểm, kế hoạch về khoa học công nghệ thủy lợi, thủy điện, môi trường, phòng chống giảm nhẹ thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; cung cấp luận cứ khoa học phục vụ lập kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng thể chế chính sách và định mức kinh tế kĩ thuật; nghiên cứu và chuyển giao công nghệ tiên tiến vào phục vụ sản xuất, an ninh quốc phòng; hợp tác quốc tế và đào tạo nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao…
Cơ cấu tổ chức của Viện có 3 Ban tham mưu và 13 đơn vị trực thuộc, có con dấu, tài khoản riêng với phạm vi hoạt động về khoa học và công nghệ vừa mang tính chất vùng, vừa mang tính chuyên sâu trên phạm vi cả nước.
Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam có 3 viện vùng trực thuộc gồm: Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Nam, Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Trung và Tây Nguyên, Viện Nước tưới tiêu và Môi trường. Có 6 viện chuyên đề gồm: Viện Thuỷ công, Viện Bơm - Thiết bị Thủy lợi, Viện Thuỷ điện và Năng lượng tái tạo, Viện Kinh tế và Quản lý Thuỷ lợi, Viện Kỹ thuật Biển, Viện Sinh thái và Bảo vệ công trình. Có 1 Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia về động lực học sông biển, 3 trung tâm Công nghệ Phần mềm Thuỷ lợi, Đào tạo và Hợp tác quốc tế, Tư vấn Quản lý tưới có sự tham gia của người dân. Lực lượng cán bộ khoa học, công nghệ của Viện hiện có gần 1.000 người, trong đó có 84 người có trình độ GS, PGS, TS; có 37 người xếp hạng nghiên cứu viên cao cấp; có 393 cán bộ trình độ thạc sỹ còn lại là kỹ sư, cử nhân...
Nhìn lại chặng đường 65 năm, trải qua hai cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Từ những ngày đầu mới thành lập, biết bao khó khăn vất vả do thiếu tài liệu nghiên cứu, thiếu trang thiết bị kỹ thuật, đội ngũ cán bộ kỹ thuật còn rất thiếu và non trẻ.., tuy nhiên công tác Thủy lợi nói chung và Khoa học Thủy lợi nói riêng luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước. Trong suốt quá trình hoạt động Viện đã vinh dự được đón nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng Nhà nước, Chính phủ về thăm và làm việc như: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương, nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, Bí thư Thành Ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân và nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp khác.
Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam rất phấn khởi, tự hào về những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển đất nước, không phụ lòng tin yêu của Đảng, Chính phủ và Nhân dân, đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong quá trình phát triển.
Trước năm 1945, thực hiện chế độ ngu dân, thực dân Pháp chủ trương không đào tạo cán bộ kỹ thuật cho các nước thuộc địa như Việt Nam. Hồ sơ lưu trữ tại Việt Nam cho thấy không có một công trình khoa học, hoặc dự án quy hoạch thiết kế thủy lợi nào trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 có người Việt chủ trì hoặc tham gia trực tiếp. Hồ sơ lưu trữ chủ yếu chỉ là những kết luận khoa học, những đồ án công trình cụ thể để thực hiện, chỉ cho người đọc biết vấn đề mà không hiểu vấn đề, biết thế nào mà không biết tại sao. Nhưng với tinh thần yêu nước, yêu nghề, biết bao thế hệ các nhà khoa học, cán bộ, người lao động trong Ngành Thủy lợi bằng trí tuệ và niềm đam mê khoa học, đã từng bước vượt qua khó khăn, thách thức để đạt được những thành tựu như ngày hôm nay.
1. Về trị thủy và phòng chống lũ lụt
Ngay sau khi giành được độc lập, nước ta đã phải trải qua liên tiếp những trận lũ lịch sử. Các nhà khoa học Thủy lợi đã từng bước nghiên cứu lý thuyết, giải các bài toán thủy lực, chỉnh trị sông, giúp cho việc xây dựng, củng cố và phát triển hệ thống đê điều; xây kè chỉnh trị sông, hạn chế được sự tàn phá của lũ lụt và bom đạn của kẻ thù. Nhiều kết quả nghiên cứu lý thuyết mới được công bố, như tuyến thoát lũ, hành lang thoát lũ đã ra đời. Là cơ sở cho tính toán dự báo ngập lụt, quy hoạch các công trình phòng lũ ở vùng hạ du, hỗ trợ điều hành, vận hành các hồ chứa trong mùa mưa bão.
2. Về Cơ học đất, nền móng công trình
Từ những bước khởi đầu chỉ bằng ý chí và kinh nghiệm dân gian, các nhà cơ học đất, nền móng công trình đã từng bước xây dựng tiêu chuẩn đóng cọc tre, cho hàng ngàn công trình trên kênh, cống dưới đê, có nền đất mềm yếu, khắp những vùng úng trũng như Bắc Hưng Hải, Hà Nam Ninh... Nghiên cứu dung dịch sét tạo hào vách đứng, để đắp tường chống thấm qua tầng cuội sỏi ở dưới mức nước ngầm. Nghiên cứu đắp đập lấp kênh trong điều kiện sình lầy, xử lý nên móng các công trình phức tạp như ở Đồng bằng sông Cửu Long. Xử lý các hiện tượng mạch sủi trong các hồ chứa, hoặc sập kè, nứt đê góp phần vào công tác phòng chống lụt bão, củng cố đê điều. Nghiên cứu đất bazal ở Tây Nguyên phục vụ thi công đắp đập, giải quyết được vấn đề vật liệu tại chỗ, xây dựng được các đập đất cao nhất vùng Đông Nam Á...
3. Vật liệu xây dựng công trình thủy lợi
Cho tới năm 1958, khi xây dựng công trường đại thủy nông Bắc Hưng Hải, Việt Nam mới biết đến máy trộn bê tông và bộ đầm dùi chạy bằng khí nén, nhưng các nhà khoa học vật liệu đã ngày đêm miệt mài thí nghiệm, nghiên cứu các giải pháp giảm nhiệt, các loại phụ gia, tính chất các loại xi măng… phù hợp với điều kiện khí hậu, thời tiết Việt Nam. Đến nay, đã nghiên cứu áp dụng bê tông đầm lăn trong xây dựng hồ đập, và rất nhiều loại vật liệu và cấu kiện mới trong bảo vệ đê sông, đê biển đảm bảo an toàn công trình và thân thiện môi trường.
4. Về Thủy nông, tưới tiêu, cải tạo đất
Các nhà khoa học đã từng bước xác định nhu cầu nước, mức tưới, chế độ tưới, công thức tưới cho các loại cây trồng vùng trũng, mặn, chua và đất bạc màu ở vùng đồng bằng. Nghiên cứu các vấn đề về cải tạo, chống xói mòn, bạc màu cho đất vùng trung du, miên núi; Sơ đồ tưới tiêu vùng mặn và chua mặn ven biển… Những kết quả nghiên cứu đã tạo nên cuộc cách mạng trong nông nghiệp, nâng thủy lợi lên mức không còn là dẫn thủy nhập điền đơn giản như trước kia, mà là một khoa học, công nghệ tưới tiêu.
5. Cải tạo đất chua phèn Đồng bằng sông Cửu Long và cảnh báo biến động nguồn nước, xâm nhập mặn cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Ngay sau ngày thống nhất đất nước, nghiên cứu cải tạo đất chua phèn ở Đồng bằng sông Cửu Long bằng biện pháp thủy lợi kết hợp với tri thức bản địa của người dân đã làm thay đổi cơ bản về vùng đất này. Cùng với các giải pháp đột phá đưa nước ngọt về vùng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên kết hợp các biện pháp kỹ thuật, các giải pháp công nghệ ém phèn, rửa phèn, đẩy phèn đã từng bước được áp dụng. Diện tích đất sản xuất dần được mở rộng, phát huy tiềm năng và thế mạnh của đồng bằng, đóng góp hiệu quả cho chiến lược an ninh lương thực của đất nước là một trong những thành tự to lớn của ngành Thủy lợi - một kỳ tích mà cả thế giới phải nể phục.
Bên cạnh đó, các nhà khoa học thủy lợi đã tích hợp nhiều bộ công cụ, sử dụng nhiều nguồn số liệu khác nhau để xây dựng các bản tin, kịch bản về biến động nguồn nước, xâm nhập mặn cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long phục vụ sản xuất, có một ý nghĩa khoa học và thực tiễn rất lớn, được Chính phủ, Bộ, Ngành và địa phương đánh giá rất cao. Đặc biệt, trong đợt hạn, mặn lịch sử năm 2015 - 2016 và năm 2019.
6. Thủy lợi phục vụ phát triển nông thôn, miền núi
Các nhà khoa học thủy lợi về máy bơm, thủy điện nhỏ, đã đề xuất công nghệ và giải pháp tối ưu cho nhiều công trình thủy điện vừa và nhỏ, các loại máy bơm hợp lý (bơm va, bơm thủy luân), phục vụ đa mục tiêu, cấp nước tưới cho hàng chục ngàn ha đất dốc và cấp nước ăn cho hàng trăm ngàn nhân khẩu ở các vùng sâu, vùng xa, nơi mà các giải pháp cấp nước truyền thống không thể giải quyết được góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, miền núi.
7. Nghiên cứu thủy lợi phòng chống thiên tai
Ngay từ khi giành được độc lập, đặc biệt là sau ngày thống nhất đất nước, các nhà khoa học thủy lợi đã tập trung đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng phục vụ phòng chống thiên tai: lũ, lụt, bảo vệ bờ sông, bờ biển ở những vùng trọng điểm. Nghiên cứu, dự báo lũ; nghiên cứu vận hành hồ chứa điều tiết lũ, các giải pháp phân lũ, kiểm soát lũ; nghiên cứu các giải pháp phòng chống sạt lở đất vùng trung du, miền núi; nghiên cứu diễn biến xói lở bờ sông, bờ biển, các giải pháp công nghệ bảo vệ bờ sông, bờ biển; các giải pháp chỉnh trị sông, cửa sông ven biển.
8. Công nghệ ngăn sông mới
Một trong những thành tựu nổi bật, mang tầm quốc tế, làm thay đổi tư duy trong xây dựng công trình thủy lợi, mang lại hiệu quả to lớn và quan trọng của ngành Thủy lợi đó là công nghệ ngăn sông mới (công nghệ đập trụ đỡ, đập xà lan di động, đập bản sườn,...). Các công nghệ này vừa giảm kinh phí xây dựng công trình vừa rút ngắn thời gian thi công và hạn chế đến mức tối đa tác động đến môi trường sinh thái. Với các công nghệ mới này ngành thủy lợi đã có thể hoàn toàn chủ động đề xuất xây được các công trình ngăn sông lớn, phức tạp tầm cỡ khu vực và thế giới.
9. Một số giải pháp, công nghệ mới
Viện đã và đang hợp tác rất chặt chẽ với các Bộ, Ban, Ngành và địa phương trong nghiên cứu, cứng dụng, chuyển giao và đào tạo liên quan đến lĩnh vực Thủy lợi, Phòng chống thiên tai, tài nguyên nước. Quan hệ hợp tác quốc tế với hơn 80 tổ chức quốc tế, trường đại học và các Viện nghiên cứu hàng đầu về Thuỷ lợi trên toàn thế giới như: Trung tâm Nghiên cứu thiên tai Châu Á (ADPC), Trung tâm hợp tác Nghiên cứu Châu Á (Asia-Hub được khởi xướng bởi ĐH Michigan-Mỹ), Mạng lưới đối tác nước toàn cầu (GWP), các tổ chức phát triển WB, ADB, AFD, các tổ chức quốc tế UNDP, UNESCO....
Bên cạnh các giải pháp khoa học, công nghệ thế mạnh đã có, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam đang tập trung đẩy mạnh ở một số vấn đề như sau: Nghiên cứu tích hợp các công cụ mô phỏng tạo ra những sản phẩm hoàn chỉnh, đồng bộ nâng cao độ chính xác trong dự báo, cảnh báo diễn biến nguồn nước, chất lượng nước, rủi ro thiên tai, đặc biệt là các lưu vực sông xuyên biên giới.
Nghiên cứu xây dựng hệ thống hỗ trợ quản lý điều hành thông minh cho hồ chứa thủy lợi trên nền tảng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI), số liệu lớn (Big-Data)… trong điều tiết nguồn nước, đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập - hồ chứa nước. Hiện đang xây dựng dự án đầu tư cho 5 hồ chứa do Bộ quản lý.
Nghiên cứu phát triển công nghệ, thiết bị và giải pháp thủy lợi tiên tiến, tiết kiệm nước phục vụ cây trồng vật nuôi giá trị kinh tế cao ứng phó biến đổi khí hậu và nâng cao hiệu quả sử dụng nước. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ không gian, giải đoán ảnh viễn thám, cơ sở dữ liệu lớn, phục vụ sản xuất nông nghiệp thông minh và kết nối thị trường.
Ngoài ra, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam cũng có nhiều đóng góp cho ngành NN - PTNT trong đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao GS, PGS, TS; Nghiên cứu đề xuất hoàn thiện thể chế, chính sách và các văn bản quy phạm, pháp luật khác.
Nhiều nhà khoa học cùng các sản phẩm khoa học công nghệ nói trên, đã nhận được những phần thưởng cao quý về khoa học công nghệ trong nước và quốc tế: Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Bông lúa vàng, Vifotech, được cấp bằng đăng ký bản quyền, sở hữu trí tuệ, tiến bộ kỹ thuật. Những thành tích này của Viện cũng đã được Nhà nước ghi nhận, đánh giá cao và trao tặng nhiều danh hiệu cao quý như: Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương độc lập và nhiều danh hiệu cao quý khác.
Những thành tựu mà Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam đã đạt được trong 65 năm qua là nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Bộ NN-PTNT, các Bộ, Ban, Ngành trung ương và địa phương, sự hỗ trợ, phối hợp từ các đối tác trong nước và quốc tế. Đặc biệt là công sức, trí tuệ của lớp lớp các thế hệ Lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức trong toàn Viện, đã phấn đấu vượt qua bao khó khăn, thử thách kể cả những hy sinh về tính mạng, sức khỏe và tuổi thanh xuân.
Thay mặt Ban Giám đốc Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các đồng chí lãnh đạo, các đơn vị quản lý của Bộ NN-PTNT, Bộ KH-CN, Bộ TN-MT, các Ban, Ngành, Cơ quan trung ương và các cấp chính quyền địa phương, các Viện Nghiên cứu, Trường Đại học, các đoàn thể chính trị xã hội, đối tác trong nước và quốc tế.
Xin được bày tỏ lòng tưởng nhớ và tri ân tới những bậc tiền nhân như: Cố Phó Chủ tịch Quốc hội – Giám đốc Viện Khoa học Thủy lợi đầu tiên Trần Đăng Khoa, PGS.TS Đào Khương, GS.TS Vũ Tất Uyên với lòng thành kính và biết ơn sâu sắc nhất. Bày tỏ lòng biết ơn, tri ân và sự trân trọng đối với công lao của các thế hệ Lãnh đạo Viện như: GS Nguyễn Thanh Ngà, GS.TS Đào Xuân Học, GS.TS Nguyễn Tuấn Anh, GS.TS Lê Mạnh Hùng, GS.TS Nguyễn Vũ Việt, GS.TS Trương Đình Dụ, GS.TS Nguyễn Ân Niên,.., các chuyên gia, nhà khoa học, cán bộ, công nhân viên, người lao động của Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam qua các thời kỳ đã cùng nhau vượt qua khó khăn, gian khổ, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, vươn tới vị thế như ngày hôm nay.
Trong thời gian tới, vấn đề Biến đổi khí hậu, diễn biến khai thác nguồn nước ngoài biên giới khó kiểm soát và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội nội tại sẽ làm cho các vấn đề về thủy lợi, phòng chống thiên tai, ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng, khó lường. Dự báo sẽ là những thách thức rất lớn đối với sự phát triển của đất nước nói chung và khoa học công nghệ thủy lợi nói riêng. Bên cạnh đó, khoa học công nghệ thế giới đang có những chuyển động và phát triển rất mạnh mẽ, cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0, điện toán đám mây, kết nối vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big data), trí tuệ nhân tạo (AI), chuyển đổi số đã trở lên quen thuộc trong ngôn ngữ của thế hệ chúng ta ngày nay. Đặc biệt, ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Thực tiễn đó, đòi hòi chúng ta phải có đủ năng lực tiếp nhận và định hướng chiến lược phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước và thế giới. Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam phải vừa duy trì những thành quả, kết quả đã đạt được, vừa phải đổi mới, sáng tạo để phát huy và phát triển mạnh hơn; vừa phải bám sát các chiến lược phát triển của đất nước để định hình, xây dựng cho Viện một mô hình phát triển phù hợp, đáp ứng với những yêu cầu, thách thức trong giai đoạn mới.
Với truyền thống vẻ vang từ những bước phát triển lớn mạnh và trưởng thành của Viện trong 65 năm qua, với sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo Bộ NN - PTNT, sự tạo điều kiện, hỗ trợ, hợp tác của các cơ quan quản lý, các đối tác trong và ngoài Bộ NN - PTNT, tôi tin tưởng rằng toàn thể lãnh đạo, chuyên gia, nhà khoa học và người lao động của Viện sẽ tiếp tục đoàn kết một lòng, thi đua, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Kế tục xứng đáng truyền thống của Ngành và của Viện, tiếp tục ghi thêm những trang sử vẻ vang, thực hiện lời di huấn thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho đất với nước điều hoà với nhau để nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội”.