Vì vậy, sẽ không thể không nhắc đến trang lịch sử đau thương sáng ngày 17/2/1979, ngày mà nhà cầm quyền Bắc Kinh xua 60 vạn quân, với hàng trăm xe tăng, hàng ngàn đại bác ồ ạt đánh chiếm 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam từ Nậm Cúm (Lai Châu) đến Pò Hèn (Quảng Ninh), trên chiều dài 1.200km, ngày mà hàng ngàn con em chúng ta hy sinh để bảo vệ biên cương Tổ quốc.
Thanh niên đăng ký lên đường làm nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc (Ảnh: Mạnh Thường) |
Những người có lương tri không một ai có thể nghĩ rằng, một dân tộc vừa mới thoát ra khỏi cuộc chiến khốc liệt kéo dài hơn 30 năm, chống hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, chưa kịp hàn gắn vết thương chiến tranh và đang gặp phải muôn vàn khó khăn do các thế lực thù địch bao vây cấm vận…, lại có thể đi “khiêu khích, gây chiến” với nước lớn láng giềng lớn như Trung Quốc. Điều đó khẳng định rằng đây thực sự là cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống xâm lược, nó giống như bao cuộc kháng chiến trong hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc ta, từ Bà Trưng, Bà Triệu đến các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê… chống phong kiến phương Bắc.
Nếu ai đó cho rằng cuộc chiến biên giới phía Bắc diễn ra quá ngắn ngủi chỉ trong vòng 17 ngày (tính từ 17/2/1979 đến 5/3/1979, khi Trung Quốc rút quân), nên không đáng nhắc đến, thì chúng ta phải nói với họ rằng cuộc hành quân thần tốc của Quang Trung - Nguyễn Huệ, tiêu diệt 29 vạn quân Thanh, giải phóng Thăng Long ngày 5/1 năm Kỷ Dậu, 1789, diễn ra còn ngắn hơn nhiều, chỉ trong 10 ngày. Nhưng hàng năm nhân dân ta long trọng tổ chức kỷ niệm chiến thắng này với niềm tự hào. Chiến thắng Đống Đa - Ngọc Hồi của Quang Trung - Nguyễn Huệ được coi là một dấu ấn vẻ vang lịch sử của dân tộc và được nhân dân ta tôn vinh, thì cuộc chiến đấu ở biên giới phía Bắc 1979, chống Trung Quốc xâm lược bảo vệ biên cương tổ quốc cũng phải được xem là một mốc son lịch sử chói lọi dưới thời đại Hồ Chí Minh quang vinh và phải được đưa vào sách giáo khoa lịch sử của các cấp học từ phổ thông đến đại học, để thế hệ trẻ hôm nay và mai sau biết rõ về cuộc chiến tranh này mà cha anh họ đã phải ngã xuống cho nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ.
Ảnh tư liệu |
Chiến tranh đã lùi xa, ngoảnh lại đã 40 năm trôi qua, là một phóng viên từng lăn lộn trên mặt trận Cao Bằng từ ngày đầu, nay ngẫm lại cảm thấy vẫn còn nhiều vân vi.
Khi tham gia cuộc chiến, những người chiến sĩ cũng như chúng tôi - những người lính trên mặt trận truyền thông - không một chút mảy may so đi tính lại thiệt hơn mà chỉ với tinh thần xả thân vì nhiệm vụ, nghe theo lời kêu gọi của tổ quốc thân thương và với lòng tự tôn là những người con đất Việt, chúng tôi thanh thản lên đường ra mặt trận dù có phải máu chảy đầu rơi…
Suốt chiều dài cuộc chiến với sự giúp đỡ của hai chiến sĩ công an biên phòng, chúng tôi đi khắp chiến trường Cao Bằng, từ Thông Nông qua đèo Mã Quỷ đến Trà Lĩnh kiên cường, từ Trùng Khánh qua đèo Mã Phục đến Hoà An, thị xã Cao Bằng, với chiếc máy ảnh Zenit và 20 cuộc phim, tôi đã kịp ghi lại các tổ chiến đấu anh dũng của dân quân tự vệ, bộ đội địa phương Cao Bằng đã đập tan các cuộc tấn công của kẻ thù. Đồng thời cũng không quên thu vào ống kính của mình sự tàn phá dã man, giết người một cách man rợ của kẻ gây hấn. Tất nhiên một nhiệm vụ quan trọng là phải ghi cho được sự thất bại của kẻ xâm lăng, hàng chục chiếc xe tăng của chúng bị quân dân ta bắn cháy và bắt sống, hàng trăm tên địch bị đền tội, hoặc bắt làm tù binh.
Là một người được chứng kiến sự kiện, tôi không thể nào quên được trong dòng người tản cư, hình ảnh một bé gái cõng em chạy giặc bị lạc bố mẹ, đói khát , mệt mỏi, nhưng may thay hai em được bà con cưu mang chăm sóc.
Chị em cõng nhau đi sơ tán (Ảnh: Mạnh Thường) |
Cũng trên đường từ Nước Hai, Hoà An, xuôi theo quốc lộ 3, một hình ảnh thê thảm đập vào mắt tôi: Hai bố con đang gạt nước mắt đắp mộ cho người vợ, người mẹ vô tội bị quân giặc giết hại. Đến cầu Tài Hồ Sìn (trên quốc lộ 3) tôi thấy một em bé khoảng 3 tuổi đang mếu máo bên người mẹ đang nằm sóng soài, bất động, máu mê loang lổ đầy người, cùng lúc đó một chiếc xe com-măng-ca chạy đến bỗng đỗ lại, một cô bộ đội súng AK trên vai, lưng quàng ba lô, nhảy xuống xe và bế em bé lên đưa về tuyến sau, đồng thời mẹ của em bé cũng được bộ đội đưa đi cấp cứu ở quân y viện dã chiến (sau 37 năm, năm 2016, phóng viên Mai Thanh Hải, báo Thanh niên đã tìm được cô bé Hoàng Thị Hiền, lúc này đã vào tuổi 40, và một năm sau tìm được cô bộ đội bế em bé là bà Bùi Thi Mùi, ở Thanh Ba, Phú Thọ).
Cô bộ đội Bùi Thi Mùi bế em bé Hoàng Thị Hiền (Ảnh: Mạnh Thường) |
Cuộc chiến diễn ra tuy ngắn ngủi, nhưng sự tàn khốc của nó không bút nào tả hết và dù kẻ thù tàn bạo, hung hãn đến đâu, song tôi cảm thấy một sự tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của quân dân ta bởi sự đoàn kết của quân dân, là sự tự nguyện xung phong ghi tên nhập ngũ của hàng vạn nam nữ thanh niên trong cả nước lên đường chiến đấu chống kẻ thù truyền kiếp, là những đoàn quân lớp lớp hành quân ra trận, hàng ngàn thanh niên xung phong vận chuyển vũ khí đạn dược cho chiến trường, không một chút run sợ trước bom rơi đạn réo, là hình ảnh chị em phụ nữ không quản ngày đêm chuyển lương thực thực phẩm cho bộ đội ăn no đánh thắng giặc, là các mẹ, các chị lo từng nắm cơm nóng sốt, đưa đến tận tay chiến sĩ trong các chiến hào. Những thương bệnh binh được các dân công hỏa tuyến khiêng cáng về phía sau cứu chữa. Để kịp thời chi viện cho chiến trường, đồng bào cả nước đã gấp rút gửi hàng hoá lên giúp đồng bào và chiến sĩ các tỉnh biên giới.
Điều đó chứng tỏ rằng một khi đất nước lâm nguy, tinh thần đoàn kết chiến đấu ngoan cường của quân và dân ta mạnh hơn bao giờ hết. Nhưng một khi kẻ thù đã thất bại, bị bắt làm tù binh, thì quân dân ta lại sẵn sàng giang tay, mở rộng lòng nhân ái, giúp đỡ cứu chữa tận tình kẻ bại trận. Đó chính là yếu tố giúp cho dân tộc Việt Nam bách chiến bách thắng trong suốt hàng ngàn năm lịch sử chống ngoại xâm, nhưng cũng cho thấy dân tộc Việt Nam luôn luôn mong muốn chung sống hoà bình và hữu nghị.