| Hotline: 0983.970.780

Cấm lợi dụng vận chuyển đất, đá thải để 'tuồn' than ra khỏi mỏ

Thứ Năm 28/09/2023 , 09:10 (GMT+7)

Trước đề xuất xin được thu hồi, sử dụng đất đá thải mỏ than để làm vật liệu san lấp, Bộ TN-MT yêu cầu cấm lợi dụng việc này để ‘tuồn’ than ra khỏi mỏ.

Tập đoàn Than - Khoáng sản đề xuất Bộ TN-MT cho phép sử dụng chất thải mỏ để làm vật liệu san lấp. Ảnh: Kiên Trung.

Tập đoàn Than - Khoáng sản đề xuất Bộ TN-MT cho phép sử dụng chất thải mỏ để làm vật liệu san lấp. Ảnh: Kiên Trung.

Xin sử dụng chất thải mỏ làm vật liệu san lấp

Trong Văn bản số 3413 ngày 1/8/2023, Công ty Cổ phần Than Cọc Sáu - Vinacomin (Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam) đề xuất với Bộ TN-MT cho phép thu hồi và sử dụng đất đá thải mỏ trong quá trình khai thác than để làm vật liệu san lấp.

Theo đơn vị Than Cọc Sáu, hiện nay nhu cầu sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp cho các dự án trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh rất lớn và cấp bách. Ngày 23/12/2020, UBND tỉnh Quảng Ninh đã có Văn bản số 8769 giao Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) lập kế hoạch khai thác, sử dụng đất đá thải trong quá trình khai thác, chế biến than làm vật liệu san lấp cho các dự án công trình trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Đến nay, TKV đã hoàn thành việc quy hoạch các khu vực hoạt động khai thác, sử dụng và kinh doanh đất đá thải trong quá trình khai thác, chế biến than thuộc TKV trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

Công ty Cổ phần Than Cọc Sáu - Vinacomin được Bộ TN-MT cấp giấy phép khai thác than từ năm 2008 khai thác bằng phương pháp lộ thiên tại các vỉa than thuộc khu vực mỏ Cọc Sáu (phường Cẩm Phú, TP Cẩm Phả). Trong quá trình khai thác than, đất đá thải mỏ được đổ thải tại các bãi thải mỏ theo quy hoạch số 3033 do UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt.

Cùng nội dung trên, ngày 18/8/2023, Công ty Cổ phần Thiên Nam cũng có Văn bản số 56 gửi Bộ TN-MT xin tận dụng đất đá thải tại mỏ than Mông Dương để sản xuất cát nghiền nhân tạo thay thế cát tự nhiên, vật liệu san nền.

Đơn vị này cho biết đã khảo sát khu vực tại bãi thải mỏ Mông Dương của Công ty than Mông Dương và thấy có đất đá thải mỏ phù hợp để tận dụng, sản xuất thành cát nghiền nhân tạo bao gồm 4 dây chuyền, mỗi dây chuyền có công suất 600 tấn/giờ.

Các bãi thải khai thác than trên địa bàn tỉnh phân bố chủ yếu tại TP Hạ Long, Uông Bí, thị xã Đông Triều và nhiều nhất là ở TP Cẩm Phả. Tại Cẩm Phả, ngoài hai Công ty than Cao Sơn và Cọc Sáu, còn nhiều đơn vị khác cũng khai thác than lộ thiên, đổ thải. Tổng diện tích các bãi thải ở Quảng Ninh hơn 4.000ha, có thể chứa khoảng 2.125 triệu m3 đất đá, hiện nay đã chứa hơn 1.375 triệu m3. Hàng năm, các đơn vị khác thác than lộ thiên đổ thải khoảng 150 triệu m3.

Cấm lợi dụng vận chuyển đất, đá thải

Bộ TN-MT cho biết, trong quá trình khai thác than (nhất là các mỏ lộ thiên), để thu hồi than đạt chất lượng phải thải bỏ một lượng đất đá phủ, đất đá vây quanh vỉa than (chủ yếu đây là khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường để sử dụng san lấp). Mỗi năm các mỏ than vùng Quảng Ninh đưa ra các bãi thải hàng triệu m3 đất đá, sau vài chục năm đã hình thành những bãi thải hàng chục triệu m3 đất đá, chiếm dụng hàng ngàn ha, gây ô nhiễm môi trường và nguy cơ gây sạt lở đất đá, trôi lấp đất đá vào khu vực dân cư vào mùa mưa bão.

Phun nước để giảm bụi đất đá tại một khai trường mỏ tại Quảng Ninh. Ảnh: Kiên Trung.

Phun nước để giảm bụi đất đá tại một khai trường mỏ tại Quảng Ninh. Ảnh: Kiên Trung.

Tuy nhiên, theo Bộ TN-MT, việc sử dụng đất, đá từ bãi thải của mỏ than nào, vị trí ở đâu, bãi thải đang hoạt động hay bãi thải thuộc các mỏ đã được đóng cửa mỏ; bãi thải đã dừng đổ thải hay sử dụng trực tiếp đất đá trong quá trình khai thác than cần phải được xem xét, đánh giá cụ thể về công nghệ, phương pháp khai thác, tác động đến môi trường trong quá trình khai thác, vận chuyển đất, đá thải mỏ.

Bộ TN-MT cũng khuyến cáo phải có giải pháp quản lý chặt chẽ, hiệu quả tránh tình trạng doanh nghiệp lợi dụng việc vận chuyển đất, đá thải để “tuồn” than đạt chất lượng từ mỏ để tiêu thụ trái phép, gây thất thoát tài nguyên khoáng sản, ngân sách Nhà nước.

Theo quy định của pháp luật về khoáng sản, đất đá thải của mỏ than là khoáng sản đi kèm, nếu muốn khai thác, tổ chức, cá nhân khai thác phải báo cáo Bộ TN-MT và được cho phép; phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định.

Cục trưởng Cục Địa chất Khoáng sản (Bộ TN-MT) Nguyễn Trường Giang cho biết, Bộ đã có nhiều văn bản hướng dẫn việc thực hiện. Việc sử dụng đất đá thải mỏ đang được đưa vào trong Nghị định sửa đổi để trình Chính phủ. Văn phòng Chính phủ cũng đã có văn bản thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu rà soát, bổ sung và đang được trình lại. Việc sử dụng đất đá thải mỏ phải đúng mục đích, phải có địa chỉ sử dụng, có địa chỉ dự án cụ thể. Không được phép lợi dụng việc khai thác đá thải mỏ để khai thác khoáng sản trái phép. Ngoài ra, tổ chức, cá nhân phải thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ với nhà nước. Về văn bản xin ý kiến nêu trên, đại diện Bộ TN-MT cho biết, Bộ chưa có văn bản trả lời và đang thực hiện theo quy trình, nếu xác định đúng là vật liệu xây dựng thì mới cho phép thực hiện.

Xem thêm
Việt Nam chưa đủ thông tin đánh giá tác động của dự án Funan Techo

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định Việt Nam chưa đủ thông tin để có thể đánh giá tác động của dự án Funan Techo.

Bắc Kạn cần hướng đến sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững

FAO tại Việt Nam đánh giá, các hợp tác xã, tổ hợp tác tại tỉnh Bắc Kạn đã cải thiện năng lực tổ chức sản xuất, có nhiều mô hình hiệu quả, thân thiện với môi trường.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

Nông dân Quảng Trị ra đồng diệt chuột, bắt ốc bươu vàng

Hàng trăm nông dân huyện Vĩnh Linh đã ra đồng vệ sinh đồng ruộng, diệt chuột, ốc bươu vàng, vệ sinh đồng ruộng.

Bình luận mới nhất

Trong bài này, tác giả (sau đây xưng là Nattoi) để cập chủ yếu 03 vấn đề, trong đó chủ yếu tập trung cho giải quyết vấn đề số 1, hai vấn đề còn lại chỉ được nhắc đến: Một: Phương pháp thiết kế điều tiết lũ hiện hành chưa đưa thông số mực nước an toàn ở hạ du vào tính toán nên yêu cầu phòng chống lũ cho hạ du chưa được đảm bảo và không có tiêu chí để xác định hiệu quả vận hành giảm lũ. Vấn đề này đã được Nattoi giải quyết cả về mặt lý thuyết và thực hành (trình bày ở mục 3.4). Hai: Tiêu chí xác định MNCNTL, MNTNĐL không được công khai, minh bạch, làm cho việc kiến nghị điều chỉnh hạ thấp 2 mực nước đối với các hồ chứa thủy điện nhằm tăng dung tích trống phòng lũ là điều bất khả. Về vấn đề này (trình bày tại Mục 3.1), Nattoi chưa nêu cụ thể phương án giải quyết là để tập trung nội dung vào vấn đề số 1 như đã nêu, nhưng hướng giải quyết là đã có. Ba: Vấn đề bán con trâu mà tiếc sợi dây thừng: Thiết kế xây dựng đập, hồ chứa nước được tính toán an toàn ổn định lật, trượt đến mực nước lớn nhất thiết kế và kiểm tra với mực nước lớn nhất kiểm tra, cho phép giữ mực nước hồ không vượt quá mực nước lớn nhất kiểm tra nhưng lại chỉ cho phép sử dụng dung tích trống phòng lũ đến mực nước dâng bình thường là sự lãng phí ghê gớm trong đầu tư xây dựng và quản lý an toàn đập, hồ chứa nước. Hướng giải quyết vấn đề số 3 (trình bày tại Mục 3.2) vốn là tự nhiên đã có nhưng không được sử dụng vì không nghĩ đến giảm lũ cho hạ du.
+ xem thêm