| Hotline: 0983.970.780

Tăng trưởng xanh là một đòi hỏi tất yếu của cuộc sống

Thứ Hai 03/03/2025 , 08:57 (GMT+7)

Nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường chia sẻ về chủ đề tăng trưởng xanh, ô nhiễm môi trường và an toàn thực phẩm của một đất nước 100 triệu dân…

Ba trụ cột kinh tế dựa vào "tam sơn, tứ hải, nhất phần điền”

Trước tình hình biến đổi khí hậu rất phức tạp, tăng trưởng xanh đang là một xu thế. Theo ông, kết quả tăng trưởng xanh vừa qua của ngành nông nghiệp cũng như định hướng trong thời gian tới thế nào?

Biến đổi khí hậu đang gây ra những tác động tiêu cực đến cuộc sống con người và trở thành thách thức lớn nhất, nan giải nhất toàn cầu phải đối mặt. Nguyên nhân chính gây ra tình trạng đó là khí thải nhà kính. Vì vậy, phát triển kinh tế xanh, giảm phát thải nhà kính đang là đòi hỏi tất yếu cho tất cả các quốc gia nếu muốn bảo vệ ngôi nhà chung là Trái đất này.

Hiện Việt Nam có chỉ số phát thải bình quân ở mức 3,4 tấn/người/năm, còn thấp so với mức phát thải trung bình 4,6 tấn/người/năm của thế giới và càng thấp so với nước có phát thải cao nhất - tới 16,7 tấn/người/năm.

Nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường. Ảnh: Dương Đình Tường.

Nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường. Ảnh: Dương Đình Tường.

Tuy nhiên, với quy mô nền kinh tế đã ở mức 500 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng 6-7%/năm hiện tại và tiến tới mục tiêu tăng trưởng 2 con số, cùng với quy mô dân số đã vượt 100 triệu người thì tốc độ gia tăng phát thải sẽ rất nhanh nếu không có biện pháp kìm hãm.

Tại diễn đàn biến đổi khí hậu toàn cầu năm 2021 (COP26) tổ chức ở nước Anh, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã đưa ra cam kết phấn đấu đạt mức phát thải bằng không vào năm 2050. Đây thực sự là một quyết tâm chính trị, xong cũng là một đòi hỏi tất yếu để chúng ta có được sự phát triển bền vững. Chính phủ đã ban hành chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, trên cơ sở đó, từng ngành, địa phương đều xây dựng, hoàn thiện chương trình, đề án để thực hiện.

Trong các lĩnh vực phát thải nhiều khí nhà kính, khu vực nông nghiệp đứng thứ ba, sau năng lượng và giao thông. Do vậy, việc tổ chức thực hiện chiến lược, đề án tăng trưởng xanh không chỉ giúp cho sự phát triển bền vững của ngành mà còn liên quan đến đạt mục tiêu giảm phát thải quốc gia. Đặc điểm địa hình của Việt Nam có thể khái quát trong câu “tam sơn, tứ hải, nhất phần điền”, cũng là tiền đề để phát triển ba trụ cột của kinh tế nông nghiệp, gồm kinh tế rừng, kinh tế biển và kinh tế nông nghiệp truyền thống trên đất liền.

Về rừng, đây là nơi cố định CO2, chống xói mòn, đem lại nhiều giá trị kinh tế, môi trường. Nếu chúng ta biết chăm sóc, quản lý tốt, rừng sẽ là vàng. Qua nhiều chương trình phát triển trồng rừng ở các giai đoạn khác nhau, đến nay, diện tích rừng Việt Nam đã đạt 14,8 triệu ha, trong đó 10,2 triệu ha rừng tự nhiên, 4,5 triệu ha rừng trồng, đưa hệ số che phủ toàn quốc lên 42,02%, một tỷ lệ cao trong khu vực và thế giới. Năm 2017, chúng ta đã ban hành Luật Lâm nghiệp với nhiều nội dung tiếp cận yêu cầu phát triển bền vững của quốc tế.

Năm 2019, Việt Nam cũng đã ký kết hiệp định VPA-FLEGT với EU, theo đó cam kết tự nguyện thực hiện luật pháp về lâm nghiệp, thương mại lâm sản một cách minh bạch. Cùng với đó, về chủ trương xã hội hóa công tác phát triển rừng, ngay từ năm 2011, chúng ta đã hình thành quỹ dịch vụ môi trường rừng. Cho đến nay, qua 14 năm đã thu về 30.000 tỷ đồng. Như bình quân, hiện sử dụng khoảng 3.200 tỷ đồng mỗi năm để chi trả công nuôi dưỡng, chăm sóc, quản lý cho 7,2 triệu ha rừng.

Với tất cả những cố gắng chung đó, đến nay, ngoài đạt hệ số che phủ 42,02% thì khối lượng gỗ khai thác rừng trồng hiện đã đạt 23 triệu m3/năm, tạo ra giá trị xuất khẩu lâm sản 16,6 tỷ USD/năm, trong đó gỗ và sản phẩm gỗ 12,4 tỷ USD/năm, giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động, góp phần giảm nghèo cho đồng bào vùng sâu, vùng xa.

Phát triển xanh là một đòi hỏi tất yếu của cuộc sống

Phát triển xanh là một đòi hỏi tất yếu của cuộc sống

Về biển, với chiều dài 3.200km bờ biển, 28/63 tỉnh duyên hải cùng khoảng 1 triệu km2 thềm lục địa và quyền lãnh hải chính là lợi thế của quốc gia. Trong chiến lược phát triển kinh tế biển nói chung và thủy sản nói riêng, nhiều năm qua, chúng ta đã cố gắng để xây dựng một ngành thủy sản bền vững, có giá trị kinh tế cao.

Từ chỗ một ngành khai thác thủy sản tự phát, tập trung nhiều về số lượng, có thời điểm 110.000 phương tiện, không ít trong số đó khai thác kiểu cạn kiệt ở vùng biển ven bờ với khối lượng quá mức (trên 4 triệu tấn trên năm), giờ đây, chúng ta đã thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp.

Như năm 2017 ban hành Luật Thủy sản mới với nhiều nội hàm tiếp cận yêu cầu phát triển bền vững của thế giới, nhất là EU - một khu vực đòi hỏi khắt khe nhất thông qua chế tài IUU. Bằng các chủ trương, chính sách, chế tài quản lý, chúng ta đã giảm đội tàu khai thác biển từ 110.000 chiếc xuống 80.0000 chiếc như hiện nay.

Cùng với đó, thay đổi cơ cấu ngư trường, giảm đánh bắt gần bờ, tăng cường đánh bắt xa bờ, áp dụng các biện pháp khai thác hiện đại, thân thiện với môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học. Chúng ta cũng đã đánh giá lại tài nguyên hải sản với kết quả ban đầu trên 4 triệu tấn làm cơ sở để ra chỉ tiêu khai thác bền vững ở mức khoảng 3,5 triệu tấn/năm.

Bên cạnh đó, chúng ta đang chú ý vào nuôi trồng cả hai nhóm đối tượng hải sản và ngoài hải sản như rong, tảo… Nhờ vậy, năm 2024, sản lượng thủy sản đạt 10 triệu tấn và xuất khẩu đạt 10,2 tỷ USD, giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động, đồng thời tiếp cận dần đến ngành hải sản thân thiện với môi trường.

Về nông nghiệp trên vùng đất liền (nhất phần điền), hướng phát triển kinh tế xanh được tập trung vào các đối tượng lớn vốn tạo ra nhiều phát thải: đầu tiên là sản xuất lúa - vốn là thế mạnh của nông nghiệp Việt Nam. Vào giai đoạn cao nhất, chúng ta đã đưa diện tích đất lúa lên tới 4,5 triệu ha và diện tích gieo trồng lên 7,8 triệu ha/năm, tạo ra sản lượng 44 triệu tấn thóc/năm. Tuy nhiên, đây là một trong những đối tượng tiêu hao nguồn tài nguyên rất lớn mà lại tạo ra nhiều khí thải nhà kính, trong khi hiệu quả kinh tế thấp.

Chính vì thế, những năm gần đây chúng ta đã chủ động giảm diện tích đất trồng lúa xuống dưới 4 triệu ha. Trong chiến lược an ninh lương thực đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam đã chủ động giảm diện tích đất lúa xuống còn 3,5 triệu ha, đồng thời áp dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học kỹ thuật để vẫn đảm bảo lương thực cho 100 triệu dân cùng với dự trữ và xuất khẩu.

Tiếp đến là chăn nuôi, cũng là một trong những đối tượng gây phát thải nhiều khí nhà kính. Chiến lược phát triển chăn nuôi năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 là cơ cấu lại nhóm thịt lợn, thịt bò, thịt gà cho phù hợp với xu thế của thế giới và phù hợp với nguồn tài nguyên.

Như vậy, tăng trưởng kinh tế xanh là một đòi hỏi tất yếu, một tiêu chuẩn trong sản xuất, tiêu dùng văn minh. Tới đây, Việt Nam phải áp dụng khoa học công nghệ, trí tuệ nhân tạo, phương thức kinh tế tuần hoàn vào để tài nguyên đầu vào của sản xuất ở mức thấp nhất, giảm phát thải nhất nhưng vẫn tạo ra số sản lượng nhiều nhất và giá trị cao nhất.

Hy vọng với sự vào cuộc đồng bộ của ba khu vực Chính phủ - Doanh nghiệp - Người dân, chúng ta sẽ thúc đẩy ngành nông nghiệp thực sự xanh hóa trong toàn cảnh nền kinh tế xanh của quốc gia.

Môi trường nhiều nơi vẫn ô nhiễm

Bên cạnh những kết quả đạt được về môi trường hiện nay ở nông thôn thì nhiều địa phương vấn đề này vẫn còn rất bức xúc. Vậy theo ông cần phải khắc phục ra sao?

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới là một chủ trương lớn, đồng bộ của Đảng và Nhà nước, được triển khai từ năm 2010 và đến nay đã đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần làm thay đổi căn bản sức sống, diện mạo ở nông thôn, cải thiện đời sống nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường, cảnh quan ở khu vực nông thôn. Trung ương chỉ đạo thực hiện Chương trình này để làm sao trong thời gian ngắn cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân, nhằm thực hiện Nghị quyết 7 khóa 10 về nông nghiệp-nông dân-nông thôn. Năm 2010 Chính phủ đã ban hành Quyết định 800 về chương trình nông thôn mới với mấy mục tiêu cốt lõi: Tập trung sức lực của toàn xã hội nhằm tăng trưởng nhanh các thiết chế hạ tầng cứng và mềm cho khu vực nông thôn; Đổi mới phương thức sản xuất để làm tiền đề cải thiện đời sống người dân; Giảm nghèo nhanh chóng; Phấn đấu làm sao cứ mỗi một giai đoạn 5 năm lại tăng thu nhập cho người dân từ 1,5-2 lần.

Chúng ta đã thực hiện được 3 kỳ kế hoạch. Thành tựu chung, thứ nhất là chuyển đổi được nhận thức của toàn xã hội coi khu vực nông nghiệp vốn trước đây là khu vực cần an sinh, cần có những chính sách bù đắp thì bây giờ đã chuyển thành một khu vực sử dụng có dư địa phát triển. Từ nhận thức đó cả hệ thống chính trị và người dân đã tập trung vào công tác này với một quyết tâm cao. Ở giai một, 5 năm từ 2010-2015 đã đầu tư tới 850.000 tỷ đồng; giai đoạn hai từ năm 2016-2020 đã đầu tư 2,1 triệu tỷ đồng; giai đoạn ba từ năm 2021 đến nay đã đầu tư xấp xỉ 3 triệu tỷ đồng; trong đó đầu tư từ ngân sách nhà nước chỉ chiếm khoảng 10%, còn lại là đầu tư từ xã hội.

Nhờ vậy các thiết chế hạ tầng, đặc biệt là giao thông bằng tất cả các giai đoạn trước cộng lại, đã thay đổi được diện mạo vùng nông thôn hiện theo hướng ngày càng khang trang hơn. Kinh tế nông thôn thay đổi thể hiện qua chỉ số xuất khẩu nông sản, qua hết năm 2024 đã có tới 15.500 sản phẩm OCOP. Thu nhập của người dân nông thôn đã tăng qua 3 giai đoạn rất rõ, năm 2010 là 12,8 triệu đồng/năm, năm 2015 là hơn 24,4 triệu đồng/năm, năm 2020 khoảng gần 42 triệu đồng/năm và năm 2024 khoảng 56,4 triệu đồng/năm. Đời sống tinh thần cũng tăng qua các thiết chế hạ tầng văn hóa, các phong trào văn hóa, thể dục thể thao ở nhiều nơi.  

Dù đã có nhiều kết quả, tuy nhiên cũng còn rất nhiều tồn tại trong chương trình nông thôn mới trong đó có vấn đề môi trường. Thứ nhất là môi trường sản xuất vẫn còn ô nhiễm; Môi trường sống vẫn còn ô nhiễm; Môi trường tự nhiên vẫn còn ô nhiễm, nhiều nơi rất nặng nề. Chỉ tính đơn giản bình quân mỗi người thải 0,7- 0,8 kg rác/ngày thì một đất nước 100 triệu dân khối lượng rác là khổng lồ trong khi công nghệ thu gom, xử lý vẫn còn bất cập. Đó là chưa nói đến đến ô nhiễm những khu vực làng nghề ô nhiễm, không chỉ ảnh hưởng đến không khí mà còn đến nguồn nước, không chỉ ảnh hưởng đến cái đời sống hiện tại mà còn cả tương lai con cháu sau này.

Phẫu diện để kiểm tra chất lượng đất. Ảnh: Viện Thổ nhưỡng Nông hóa.

Phẫu diện để kiểm tra chất lượng đất. Ảnh: Viện Thổ nhưỡng Nông hóa.

Chúng ta có sự cố gắng nhưng tổng thể vẫn chưa giải quyết được. Nói riêng khu vực nông thôn trừ một vài tỉnh, thành phố như Hà Nội có tỷ lệ thu gom và xử lý rác theo phương pháp hiện đại tương đối, còn lại phổ biến vẫn là tỷ lệ thu gom rác thải thấp, thứ nữa là thu gom rồi thì chủ yếu vẫn sử dụng biện pháp chôn lấp gây ô nhiễm. Riêng về khu vực sản xuất thì ô nhiễm trên đồng ruộng vẫn còn ở rất nhiều nơi, thể hiện qua dư lượng thuốc BVTV, phân bón hóa học. Phần lớn các thủy vực vẫn còn ô nhiễm nặng. Chính vì thế mà ảnh hưởng đến chất lượng đời sống của người dân, trước hết là của bà con ở vùng nông thôn.

Bởi vậy, trong chương trình nông thôn mới, ngành nông nghiệp đã xây dựng đề án, kế hoạch trong 5 năm tới, một trong những điểm rất lưu ý là tiêu chí thứ 17 tức về môi trường trong đó phân ra nhiều nhóm xử lý rác thải trong sinh hoạt, trong sản xuất và trong tự nhiên. Phải làm đồng bộ, nâng cao trách nhiệm ý thức từ hộ đến các tổ chức chuyên nghiệp theo hướng xã hội hóa như ở huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định đã làm rất tốt điều này. Phải đi đôi thúc đẩy kinh tế nông thôn với cải thiện môi trường.

Đòi hỏi về lương thực, thực phẩm của 100 triệu dân nay đã khác trước

Mặc dù quy mô sản xuất nông nghiệp của Việt Nam đã tương đối lớn, không những đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu tới 62 tỷ USD tuy nhiên vấn đề an toàn thực phẩm vẫn là một điều trăn trở của xã hội. Vậy theo ông phải có những giải pháp nào tới đây?

Đúng là nông nghiệp đã ở quy mô khá lớn và liên tục tăng trưởng ở mức đáng kể, đáp ứng về cơ bản nhu cầu lương thực, thực phẩm cho 100 triệu dân và xuất khẩu được 62 tỷ USD/năm. Tuy nhiên chúng ta không bằng lòng với mình, đặc biệt về khía cạnh sản xuất theo chuỗi giá trị và về an toàn thực phẩm bởi mấy lẽ: Việt Nam  đang tiến dần tới mức nước có thu nhập trung bình ở cận trên. Với tốc độ tăng trưởng từ 6-7% như hiện nay thì sẽ rất nhanh đạt được điều đó.

Các cụ đã nói: “Phú quý sinh lễ nghĩa. Bần tiện hóa nhom nhem”. Như vậy đòi hỏi của 100 triệu dân hiện nay và trong tương lai hoàn toàn khác trước, ăn đòi hỏi phải ngon hơn, phải an toàn hơn. Chúng ta đã hội nhập tới 14 AFTA (khu vực mậu dịch tự do ASEAN) không chỉ phải quan tâm đến sản phẩm nông nghiệp mình tự sản xuất mà phải quan tâm cả nông sản nhập khẩu.

Đòi hỏi về lương thực, thực phẩm của 100 triệu dân nay đã khác trước.

Đòi hỏi về lương thực, thực phẩm của 100 triệu dân nay đã khác trước.

Tất cả các nhóm nông sản của Việt Nam, không cần phân biệt xuất khẩu hay nội địa đều phải xây dựng một bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn như nhau với yêu cầu an toàn cao và có chiến lược phát triển, chỉ tận dụng những vùng nào có lợi thế nhất chứ không triển bằng mọi giá để lấy năng suất. Bây giờ phải phát triển thuận thiên giúp giá thành thấp nhất, chất lượng cao nhất, ô nhiễm thấp nhất. Thứ hai là tăng cường chế biến. Thứ ba là phân phối lưu thông. Thứ tư là quản trị, giám sát truy xuất nguồn gốc ứng dụng công nghệ số. Cuối cùng là nâng cao ý thức, không chỉ người sản xuất mà cả người tiêu dùng. Người tiêu dùng bây giờ quyết định người sản xuất bởi họ có tiền thì có quyền lựa chọn.

Theo ông tình hình hợp nhất hiện nay giữa hai Bộ NN-PTNT và Tài nguyên và Môi trường tạo ra những cục diện mới thuận lợi thế nào cho sự phát triển của cả hai ngành nông nghiệp và môi trường?

Tất cả các ngành kinh tế nói chung đều dựa trên các trụ cột cơ bản: tài nguyên, môi trường, con người, với riêng ngành nông nghiệp thì mối tương quan giữa các yếu tố đó lại càng khăng khít. Trước đây, trong quản lý về tài nguyên có sự phân định khối mảng nào đấy cho ngành nông nghiệp, khối mảng nào đấy cho ngành tài nguyên. Nay hợp nhất hai bộ là cơ hội tốt bởi hội tụ đủ 3 yếu tố chính: tài nguyên, môi trường và con người làm một để vận hành phát triển nền kinh tế theo hướng tổng hòa. Việc quản lý dựa trên hệ thống số liệu thống nhất sẽ tạo ra một cục diện mới. Bên cạnh đó cũng là tiền đề cho việc xây dựng các chiến lược để tiết kiệm tài nguyên qua sự phân bổ các nguồn lực.

Về môi trường, trước đây ngành nông nghiệp đứng thứ ba, sau năng lượng, giao thông về phát thải. Nay hợp nhất hai bộ sẽ có biện pháp đồng bộ để kiểm soát, để giảm thải, để tập trung công nghệ.  Đó là sự vận động đi lên trong quá trình phát triển kinh tế theo quy luật tạo ra sự thống nhất giữa quản trị tài nguyên, phân bổ nguồn lực ra mục tiêu chung của khu vực này, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững cả về nông nghiệp và môi trường. Tất nhiên là lúc đầu của việc hợp nhất bao giờ cũng có việc này việc nọ về bộ máy, về tổ chức, về cán bộ... nhưng thứ này là cái nhỏ, chúng ta sẽ khắc phục trong một thời gian ngắn thôi.

Xin cảm ơn ông!

(thực hiện)

Xem thêm
Nhớ về nhiệm kỳ đầu tiên của Bộ Tài nguyên và Môi trường

Trước những đòi hỏi cấp bách về đổi mới thể chế, mỗi một cán bộ đừng nên suy tính hơn thiệt điều gì, tương lai tươi sáng đang chờ đợi chúng ta.

Từ 1/3, ô tô điện không còn được miễn 100% lệ phí trước bạ

Bắt đầu từ ngày 1/3/2025, ô tô điện chạy pin đăng ký lần đầu tại Việt Nam sẽ không còn được hưởng mức lệ phí trước bạ 0% như trước.

CHIA BUỒN

Đảng ủy, Ban Biên tập, Công đoàn và toàn thể cán bộ, nhân viên Báo Nông nghiệp Việt Nam xin chia buồn cùng bà quả phụ Ma Thị Châm và gia quyến.

‘Di sản vàng’ bên bờ biển xanh: [Bài cuối] Làng du lịch cộng đồng

Đêm ở làng Gò Cỏ, gió vi vu như tiếng thì thầm của người Sa Huỳnh cổ vọng lên từ lòng đất cùng với sóng biển rì rầm kể chuyện ngàn xưa...

Bình luận mới nhất