Kinh tế nông thôn ngày càng phát triển thì lượng rác càng lớn. Trong khi công nghệ xử lý rác còn lạc hậu, kinh phí eo hẹp…
Quá tải, bế tắc
TP Hải Phòng mỗi ngày thải ra khoảng 1.200 tấn rác, trong đó nông thôn chiếm 30%, được xử lý tại các điểm tập trung của thành phố, 3 điểm tập trung của các huyện và gần 200 điểm nhỏ lẻ.
Những bãi rác tạm lộ thiên đã trở nên quen thuộc tại nông thôn
Trong tổng số 153 xã, thị trấn trên địa bàn Hải Phòng, hiện có 63 xã, thị trấn được vận chuyển rác về xử lý tại các bãi rác tập trung của huyện và TP. 90 xã, thị trấn còn lại có 156 bãi rác tạm thời. Trong đó có 116 bãi được xử lý bằng phương pháp chôn lấp nhưng chưa bảo đảm quy trình kỹ thuật, 40 bãi đã quá tải, cần đóng cửa. Các bãi rác tạm thời phần lớn lộ thiên, gây ô nhiễm nặng nề, ảnh hưởng cuộc sống người dân.
Được biết hiện có khoảng 85% lượng rác ở nông thôn Hải Phòng được thu gom, xử lý. Tuy nhiên, công nghệ xử lý rác còn lạc hậu, mới dừng lại ở phương pháp chôn lấp là chính. Hiện việc chôn lấp rác đã đến mức giới hạn. Gần đây, một số nơi dùng lò đốt cỡ nhỏ để xử lý rác nhưng hiệu quả chưa cao.
Đến tháng 7/2016, các huyện ngoại thành Hải Phòng có tổng số lò đốt rác đang hoạt động và xây dựng là 7 lò. Trong 4 lò đã hoàn thành và đưa vào sử dụng thì có 2 lò không đạt nhiệt độ theo công suất thiết kế, 2 lò còn lại không rõ nhiệt độ lò đốt. Hơn nữa, do quy mô nhỏ nên các lò đốt không đáp ứng được nhu cầu.
Tại kỳ họp HĐND TP diễn ra tháng 12/2016 vừa qua, đại biểu HĐND bày tỏ băn khoăn: Sau khi các lò đốt rác hoạt động không hiệu quả, TP yêu cầu tạm dừng đầu tư xây dựng các lò đốt rác nhưng chưa có giải pháp xử lý rác thải tại nông thôn, dẫn đến việc rác thải tràn ngập một số tuyến đường, kênh mương ngập rác…
Các thùng rác được đặt dọc theo các tuyến đường trục xã Trân Châu, huyện Cát Hải.
Đến nay, việc triển khai xây dựng các khu xử lý rác thải tập trung cấp huyện theo quyết định của UBND TP từ năm 2012 chưa hoàn thành do còn gặp nhiều khó khăn về kinh phí đầu tư, mặt bằng. Hiện Hải Phòng mới đang xây dựng một khu xử lý chất thải rắn tập trung rộng 6ha tại xã Minh Tân, huyện Thủy Nguyên.
Khó nhất kinh phí
Nhiều xã than kinh phí dành cho công tác thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải còn eo hẹp.
Ông Vũ Viết Thịnh – Chủ tịch UBND xã An Thái, huyện An Lão cho biết, xã bắt đầu tổ chức thu gom rác thải từ năm 2011, tần suất 3 lần/tuần. Hiện lượng rác thải trên địa bàn xã An Thái khoảng 12m3/ngày. Lượng rác này gom về bãi rác tạm của xã, được xử lý bằng cách chôn lấp mỗi năm 3 lần. Hằng tháng có 3 lần phun chế phẩm sinh học, vôi bột, hóa chất để khử mùi, hạn chế ruồi muỗi.
Mỗi năm, TP hỗ trợ xã một phần kinh phí cho hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải và mỗi hộ gia đình nộp phí vệ sinh theo quy định là 20 nghìn đồng/tháng. Nhưng vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu, trong đó có trả lương, BHXH cho đội thu gom, xử lý rác gồm 27 nhân viên, chi phí vận chuyển, xử lý rác… Xã phải rót thêm ngân sách và xã hội hóa mới đủ.
Phun thuốc khử mùi cho bãi rác tại xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy
Địa phương đang đề xuất thu phí vệ sinh thấp nhất là 6 nghìn đồng/khẩu/tháng thay vì mức 20 nghìn đồng/hộ gia đình/tháng để thực hiện thu gom, xử lý rác thải trên địa bàn.
Với việc thu phí vệ sinh theo khẩu (7 nghìn đồng/khẩu/tháng) từ năm 2015, xã An Lư (huyện Thủy Nguyên) cũng mới tạm đủ chi cho việc thu gom, xử lý rác trên địa bàn. Trước đó, xã thu phí vệ sinh theo quy định là 20 nghìn đồng/hộ gia đình/tháng thì xã phải bù vào 5-7 triệu đồng/tháng. Từ khi thu theo khẩu, ngân sách xã không phải bù nữa.
Hiện tổ thu gom rác có 9 người, đi thu gom rác hằng ngày và vận chuyển luôn lên bãi rác tập trung của huyện. Tuy nhiên, với mức lương 3,5 triệu đồng/người/tháng, tổ thu gom khó tìm được người lao động trong bối cảnh xã có khu công nghiệp lớn, thu hút nhiều công nhân với mức lương khá hơn nhiều.
Còn theo chị Đoàn Lê Mai – cán bộ phụ trách môi trường UBND xã Trân Châu (huyện Cát Hải), với mức thu phí vệ sinh tại địa phương là 15 nghìn đồng/hộ gia đình/tháng, phải tiết kiệm hết mức mới đủ chi.
Hiện lượng rác thải mỗi ngày của xã Trân Châu khoảng 18m3. Xã có 2 ga rác ở thôn Bến và các thùng rác đặt dọc theo tuyến đường của các thôn.
Tại các điểm tập kết rác, Chi hội phụ nữ các thôn đứng ra đảm nhận một số phần việc như vệ sinh, phun chế phẩm sinh học khử mùi và khu vực đặt thùng rác. Kinh phí xã chỉ có thể hỗ trợ một phần cho họ làm công việc này với mức 350- 500 nghìn đồng/tháng.
Cứ 5 ngày, rác được thu gom, vận chuyển lên bãi rác tập trung của huyện. Riêng chi phí vận chuyển rác từ xã lên huyện đã ngốn 48 triệu đồng/năm. Thuốc phun khử mùi cũng cần khoản kinh phí không nhỏ vì khá đắt.
Chị Đoàn Lê Mai nói: “Rác để ở thùng 5 ngày mới chuyển một lần, mùa đông thì được chứ mùa hè rác bốc mùi nặng, phải phun nhiều thuốc khử mùi. Rồi cứ 2 năm phải thay thùng một lần vì chúng ở ngoài trời nhanh hỏng, vỡ, không thể chứa rác được. Rồi mua dụng cụ lao động cho người thu gom, vận chuyển như xe rùa, xẻng… Nói chung, chúng tôi phải tự cân đối, năm nay mua cái này thì năm sau mua cái kia”.