| Hotline: 0983.970.780

Năng suất lao động thấp, 'nút thắt' của nền kinh tế

Thứ Ba 05/07/2016 , 07:10 (GMT+7)

Nhiều năm qua những con số thống kê về năng suất lao động của người Việt Nam vẫn không mấy khả quan khi so sánh với các nước trong khu vực...

Năng suất lao động như là đôi cánh của nền kinh tế, nền kinh tế có bay cao, bay xa hay không là phụ thuộc vào đôi cánh này. Thực tế cho thấy rất nhiều doanh nghiệp vẫn có thể tồn tại trong tình trạng thiếu vốn, hạn hẹp thị trường và chịu áp lực cạnh tranh khốc liệt nhưng chắc chắn sẽ chết dần chết mòn nếu năng suất lao động thấp.

Bị thế giới bỏ xa

Nhiều năm qua những con số thống kê về năng suất lao động của người Việt Nam vẫn không mấy khả quan khi so sánh với các nước trong khu vực.

Điều này càng khó chấp nhận với một đất nước 92 triệu dân đang trong thời điểm dân số “vàng” (tạm hiểu là có số đông người trong độ tuổi lao động), có hơn 400 trường đại học, cao đẳng; 24.000 tiến sỹ; hơn 225.000 cử nhân, thạc sỹ đang… ngồi chơi xơi nước.

Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), năm 2013, năng suất lao động của Việt Nam được xếp vào nhóm thấp nhất của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, thấp hơn Singapore 15 lần, Nhật Bản 11 lần, Hàn Quốc 10 lần, Malaysia 5 lần, Thái Lan 2,5 lần, là 1 trong 3 nước có năng suất lao động thấp nhất ASEAN, xấp xỉ Lào và chỉ cao hơn chút ít so với Myanmar, Campuchia.

“Tụt hậu”, “bị bỏ lại phía sau” là thực trạng không còn nằm trong vùng “nguy cơ” mà đã trở thành hiện thực vì nếu (giả định) Việt Nam vẫn duy trì liên tục tốc độ tăng trưởng năng suất lao động trung bình như trong giai đoạn 2007 - 2012 thì phải đến năm 2038 chúng ta mới bắt kịp năng suất lao động của Philippines, năm 2069 mới bắt kịp Thái Lan.

Chỉ đơn cử như Singapore, quốc gia 5 triệu dân nhưng họ đã tạo ra khối lượng GDP 200 tỷ USD, trong khi dân số Việt Nam gấp hơn 18 lần họ nhưng cũng chỉ tạo ra khối lượng GDP tương đương, con số đủ để nói lên chúng ta đang bị bỏ lại xa so với khu vực và thế giới như thế nào.

Kinh tế Việt Nam từng có giai đoạn tăng trưởng nóng như những năm 2006 - 2009, điển hình như năm 2006 tốc độ tăng trưởng đạt 11,69%, năm 2008 đạt 8,64% nhưng tốc độ tăng trưởng trong thời kỳ này không dựa trên năng suất lao động mà là dựa vào đồng vốn.

Bởi vậy, mặc dù tăng trưởng nhanh nhưng chỉ số ICOR (hiệu suất sử dụng vốn đầu tư) rất thấp, ví dụ những nước có chỉ số ICOR cao để tạo ra 1 đồng lãi họ chỉ đầu tư 0,5 đồng vốn nhưng đối với quốc gia có chỉ số ICOR thấp để tạo ra 1 đồng lãi đôi khi phải đầu tư 1 hoặc 2 đồng vốn.

Cái “quy trình” để năng suất lao động thấp kéo lùi sự phát triển diễn ra theo nguyên lý giản đơn là hao phí lao động xã hội kết tinh trong sản phẩm. Nơi nào có hao phí lao động xã hội càng thấp thì càng có lợi thế cạnh tranh bằng cách làm giảm giá thành sản phẩm đến mức thấp nhất mà vẫn có lãi để quay vòng tái đầu tư sản xuất.

Điều này giải thích vì sao hàng Trung Quốc luôn rẻ hơn so với hàng Việt Nam, đơn giản vì năng suất lao động cao tạo ra khối lượng sản phẩm lớn nên hao phí lao động xã hội cần thiết để tạo ra sản phẩm được hạ xuống dẫn đến hạ giá thành sản phẩm.

Đâu là nguyên nhân?

Thực tế cho thấy ở nhiều doanh nghiệp, điều quan tâm nhất với họ là nguồn vốn đầu tư, thị trường tiêu thụ, làm giảm tối đa chi phí cần thiết để tăng lãi suất chứ ít khi chú trọng đến khâu tạo điều kiện để tái sản xuất sức lao động của người lao động, nhiều nhà tuyển dụng lấy tiêu chí giá cả sức lao động làm cơ sở.

Một nguyên nhân thường hay được đưa ra để biện minh cho câu hỏi vì sao năng suất lao động Việt Nam thấp là do tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo cao.

Nhưng cần thấy rằng Việt Nam là một trong những quốc gia có nhiều trường đại học và nhiều tiến sỹ nhất thế giới, tỷ lệ sinh viên/dân thuộc tốp cao và hiện nay chúng ta đang lãng phí rất lớn nguồn lực này.

Có chăng điều này chỉ đúng với những doanh nghiệp trong khu vực nhà nước với lực lượng lao động được bao cấp biên chế tạo nên sức ì. Còn đối với doanh nghiệp FDI năng suất lao động không thua kém các nước trong khu vực.

Sự lạc hậu của công cụ lao động cũng là trở lực không nhỏ với yêu cầu tăng năng suất lao động, công cụ lao động ở đây chính là khoa học kỹ thuật, trong nền kinh tế tri thức thì yếu tố này đóng vai trò quyết định.

Thực tế cho thấy chúng ta chưa làm chủ được nhiều công nghệ nên phải nhập khẩu và tất nhiên không quốc gia nào bán cho chúng ta công nghệ mới nhất của họ, đó là chưa kể nguy cơ ô nhiễm môi trường và trở thành bãi rác công nghệ cho các nước phát triển.

Lao động Việt luôn được đánh giá là cần cù, thông minh sáng tạo nhưng thiếu tính kỷ luật, đó là do môi trường làm việc chưa chuyên nghiệp, mặc dù hội nhập đã 30 năm, hiện đang sống trong thời đại hậu công nghiệp nhưng tác phong công nghiệp là điều mà nhiều doanh nghiệp và người lao động Việt đang thiếu.

Năng suất lao động thấp là nguyên nhân của hầu hết vấn đề trong nền kinh tế bởi bản chất của nó là vấn đề chất lượng con người, là hàm lượng khoa học kỹ thuật trong sản phẩm được tạo ra. Nếu không cải thiện được vấn đề này thì nền kinh tế Việt Nam sẽ còn tụt lại xa hơn so với thế giới và doanh nghiệp Việt vẫn mãi “khôn nhà dại chợ”.

Không có lợi thế cạnh tranh đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt đứng ngoài cuộc chơi trong chuỗi lợi ích toàn cầu, khi đó liệu tham gia TPP và làn sóng hội nhập có mang lại hiệu quả như mong muốn? Chỉ khi nào tháo được “nút thắt” này thì mới hy vọng bắt kịp xu thế.

 

Xem thêm
Bàn cách tận dụng hết dư địa cho tinh dầu quế

HÀ NỘI Thiếu hụt nhân lực có kỹ năng và chuyên môn, quy trình sản xuất chưa hoàn thiện và chưa có phương pháp tiếp cận thị trường toàn cầu là khó khăn chung của ngành quế.

Phú Lương lần đầu tổ chức Ngày hội hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS

Sáng 21/4, huyện Phú Lương (Thái Nguyên) tổ chức Ngày hội Tư vấn hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS năm 2024.

Tập đoàn PAN đặt doanh thu 14.700 tỷ năm 2024 với các giải pháp nông nghiệp thuận thiên

Trước lo ngại về biến đổi khí hậu, khó khăn chung của bối cảnh kinh tế, Tập đoàn PAN đặt mục tiêu doanh thu thận trọng tăng 12% với các giải pháp nông nghiệp thuận thiên.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm