Đây là nội dung được đưa ra tại Hội thảo “Hành trình xanh hóa ngành cao su - nhựa” do Hiệp hội Tái chế chất thải Việt Nam tổ chức chiều 18/3 tại TP.HCM.
Theo ông Trần Việt Anh - Chủ tịch Hiệp hội Tái chế Chất thải Việt Nam, trong những năm qua, ngành cao su và nhựa Việt Nam đã có sự tăng trưởng ấn tượng, đóng góp quan trọng vào nền kinh tế quốc gia.
Theo thống kê, ngành nhựa Việt Nam đạt doanh thu khoảng 25 tỷ USD/năm, với tốc độ tăng trưởng trung bình 10-12%. Ngành cao su cũng không kém phần quan trọng khi xuất khẩu đạt 3,5 tỷ USD/năm, góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu cao su hàng đầu thế giới.

Người tiêu dùng ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các sản phẩm tái chế. Ảnh: Hà Duyên.
Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ, ngành cao su – nhựa cũng đang đối mặt với những thách thức lớn về môi trường. Việc tiêu thụ nhựa ngày càng gia tăng kéo theo vấn đề về rác thải nhựa và nhu cầu tái chế bền vững.
Cũng theo ông Trần Việt Anh, hiện nay tại Việt Nam việc thực hiện tái chế chất thải một cách bài bản vẫn còn rất sơ khai. Điển hình như trong ngành nhựa hiện nay, việc tái chế đạt theo tiêu chuẩn của Mỹ chỉ có 2 doanh nghiệp, còn lại là tái chế ra những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn, chất lượng.
“Theo tiêu chuẩn trên thế giới, các sản phẩm tái chế phải đạt chất lượng bằng 90% sản phẩm nguyên sinh. Do đó, chúng ta vẫn chưa thực hiện được điều này”, ông Việt Anh nhấn mạnh và cho biết thêm, một trong những vấn đề quan trọng mà Hiệp hội Tái chế chất thải Việt Nam đang theo sát là trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR). Đây là cơ chế buộc doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm đối với vòng đời sản phẩm của mình, từ sản xuất đến thu hồi và tái chế. “Việc thực hiện tốt EPR sẽ giúp ngành cao su - nhựa giảm thiểu tác động môi trường, đồng thời mở ra nhiều cơ hội cho lĩnh vực tái chế phát triển mạnh mẽ hơn”, ông Trần Việt Anh khẳng định.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Thi – Đại học Tài nguyên và Môi trường cho biết, sản lượng nhựa đang có sự tăng trưởng nhanh chóng. Trên thế giới nếu như năm 1950 chỉ có 2 triệu tấn nhựa được sản xuất thì đến năm 2019 con số này đã tăng lên 400 triệu tấn, tăng 200 lần. Trong khi đó, lượng nhựa được tái chế mới chỉ chiếm 9%.
Tại Việt Nam sản lượng nhựa được sản xuất cũng tăng nhanh từ 0,2 triệu tấn năm 1990 lên hơn 10 triệu tấn vào năm 2022. Dự kiến năm 2025, sản lượng nhựa tại Việt Nam sẽ đạt mức 11,65 triệu tấn.
Theo ông Thi, hiện trong các nhà máy, hoạt động tái chế được thực hiện tương đối tốt, song đối với rác thải sinh hoạt, việc tái chế vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức.
Chỉ riêng tại các thành phố lớn như Hà Nội và TP.HCM, mỗi ngày có đến 80 tấn rác thải nhựa và túi nilon được thải ra môi trường. Tuy nhiên, tỷ lệ tái chế hiện nay vẫn rất thấp, chỉ khoảng 10%, trong khi phần lớn rác thải nhựa còn lại bị xử lý bằng cách chôn lấp hoặc đốt.
Lý giải nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, ông Thi cho rằng, việc tái chế rác thải sinh hoạt cần phải có mặt bằng lớn. Quy trình tái chế sẽ tiếp tục có chất thải. Do đó cần phải có công nghệ cao cấp, cần nguồn vốn lớn. Cùng với đó là sự quyết tâm của người làm tái chế.
Đưa ra những gợi ý về giải pháp để thúc đẩy tái chế rác thải trong ngành cao su – nhựa, TS. Phạm Việt Anh - Tiến sĩ Quản trị kinh doanh bền vững, nghiên cứu sinh về phát triển bền vững và ngoại giao cho rằng, Chính phủ cần phải có những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, thậm chí là phát triển những cụm ngành liên quan đến công nghiệp tái chế.
Chính phủ cần đưa ra những chính sách mang tính chất kích thích, ví dụ như là đốt rác phát điện thì điện đó sẽ được mua với giá cao hơn thì mới hấp dẫn các doanh nghiệp đầu tư. Đây cũng là những chương trình các nước phát triển đang làm để thúc đẩy tái chế. Do đó, chính sách về EPR (cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất trong tuân thủ quy định tái chế sản phẩm, bao bì) ra đời vào lúc này rất kịp thời. Có nghĩa là những người làm tái chế sẽ được thưởng khoản tiền cho mình từ cái sản phẩm tái chế.
“Thời gian qua, chúng ta chủ yếu đầu tư vào quản trị kinh doanh, tài chính ngân hàng nhưng với ngành kỹ thuật, ngành công nghệ thì có vẻ chưa được mặn mà lắm. Do vậy, ngay từ phía nhà trường cần có định hướng để đầu tư để có thể chủ động về công nghệ, chủ động về con người”, TS. Phạm Việt Anh nhấn mạnh.