RAS quy mô nhỏ, tiềm năng lớn
Công ty khởi nghiệp Seawater Cubes (Đức) được đồng sáng lập bởi 2 cựu kỹ sư là Kai Wagner, Christian Steinbach và chuyên gia quản trị kinh doanh Carolin Ackermann, từ Meeresfischzucht Völklingen - Công ty RAS quy mô lớn đầu tiên của châu Âu (hiện đổi tên là The Infinite Sea Company).
Bộ ba tin rằng có thể thiết kế một hệ thống RAS hiệu quả và giá cả phải chăng hơn. Họ đã vạch ra kế hoạch kinh doanh ấn tượng để nhận được nguồn tài trợ 1,5 triệu euro từ Bộ Kinh tế Đức.
Bà Ackermann, Giám đốc điều hành Seawater Cubes nói: “Chúng tôi nghĩ về cách làm RAS tốt hơn, phát triển ý tưởng về cách tiếp cận quy mô nhỏ để nuôi cá trên đất liền”.
Thiết kế này của Seawater Cubes dựa trên việc lắp ráp 4 container để tạo thành một hệ thống nuôi rộng 120m2. Sau thời gian thử nghiệm, mỗi hệ thống có khả năng sản xuất 7,8 tấn cá/năm. Đây là khối lượng ấn tượng từ một quy mô nhỏ.
Ackermann cho biết: “Chúng tôi đã đạt được tỷ lệ sống 98% nhờ chất lượng nước được duy trì ở mức tối ưu khi kết hợp hệ thống lọc và phần mềm điều khiển. Nó cũng giúp chúng tôi duy trì mật độ thả giống dưới giới hạn tối đa.
Không giống các hệ thống RAS truyền thống, thường gồm một loạt bể tròn, thiết kế RAS của Seawater Cubes là một bể hình chữ L duy nhất trên mỗi hệ thống, bể được chia thành 3 phần. Theo Ackermann, trong vòng 9 tháng, cơ bản khách hàng có thể thu hoạch cá.
Ackermann giải thích, 2 thành phần chính của hệ thống gồm hệ thống lọc sinh học dựa trên kỹ thuật khử nitrat đặc biệt, cho phép tái chế tới 99% nước và phần mềm tự động hóa vận hành phần lớn hoạt động nuôi. Cả hai đều được Seawater Cubes tự phát triển.
Hệ thống có thể được chuyển giao rộng rãi, ngay cả với những người không có kinh nghiệm nuôi trồng thủy sản. Công ty sẽ tập huấn hướng dẫn khách hàng cách vận hành hệ thống, gồm vận hành trực tuyến và thực hành kéo dài 1 tuần tại mô hình thí điểm của chính công ty.
Về đối tượng nuôi phù hợp, Công ty đã thử nghiệm thành công nuôi cá chẽm và cá tráp, đồng thời đang tiến hành thử nghiệm nuôi cá trống đỏ và cá chim. Dù chú trọng vào các loài cá biển nhưng hệ thống được sản xuất ở xa bờ biển bằng cách sử dụng nước muối pha.
“So sánh với các tiêu chuẩn hữu cơ, chúng tôi thấy rằng cá chẽm và cá tráp hữu cơ hiện nay có rất ít trên thị trường. Mặc dù theo các quy định hiện hành của EU, cá sản xuất trong hệ thống RAS không thể đạt được chứng nhận hữu cơ, nhưng chúng tôi tin rằng các quy định sẽ thay đổi”, Akermann tin tưởng.
Chi phí đầu tư thấp
Mỗi hệ thống hiện có giá là 350.000 euro, con số rất nhỏ so với mức đầu tư xây dựng một cơ sở RAS khiêm tốn nhất.
"Cách tiếp cận của chúng tôi không phải là làm lớn ngay từ đầu mà bắt đầu từ quy mô nhỏ và liên tục mở rộng bằng các hệ thống bổ sung sau khi chứng minh hiệu quả. Chúng tôi sẽ không học theo những dự án gọi vốn lớn và thường xuyên thất bại”, Ackermann nói.
Cùng với việc giảm chi phí, Ackermann cho hay, một hệ thống nhỏ hơn cũng sẽ giúp đơn giản hóa quy trình cấp phép.
Ackermann giải thích: “Khách hàng ở Đức cần giấy phép xây dựng nhưng không cần giấy phép xả nước thải vì lượng nước thải rất nhỏ, chỉ khoảng 500 lít mỗi ngày. Điều này nghĩa là hệ thống nuôi có thể xả thải trực tiếp vào hệ thống nước thải đô thị - đó là những gì chúng tôi làm. Tuy nhiên một trong những khách hàng của chúng tôi sử dụng nước thải cho nhà máy khí sinh học của họ. Chúng tôi cũng nhận thấy rất nhiều khách hàng tiềm năng quan tâm đến việc kết hợp nuôi cá với aquaponics - sử dụng nước thải để trồng các loại cây chịu mặn như cây Salicornia”.
Về mặt tiêu thụ năng lượng, một trong những chi phí lớn nhất và tác động tiêu cực nhất đến môi trường đối với nhiều nhà nuôi trồng RAS hiện nay, Ackermann cho biết, mỗi hệ thống cần 60.000 kWh/năm để vận hành. Con số này tương đối thấp nhờ vào quy trình tự động hóa của hệ thống, tạo nên mức hiệu quả năng lượng cao.
Mặc dù hầu hết quy trình đã được tự động hóa, nhưng tất nhiên hệ thống vẫn cần có yếu tố can thiệp của con người, nhưng sự tác động rất nhỏ.
“Các công việc con người vận hành thường ngày cần khoảng 8 giờ/tuần, chủ yếu là công việc kiểm soát, quan sát cá, xem dữ liệu, dọn dẹp đồ đạc, đổ đầy máng ăn. Trong đó chiếm nhiều nhất là thời gian chế biến cá sau khi thu hoạch”, Akermann nói.
Được biết, cá do Seawater Cubes sản xuất trong hệ thống RAS của họ có thể được bán với mức giá mong muốn. Tại chính nơi sản xuất là Saarbrücken, những khách hàng sẵn sàng trả 30 euro/kg cho cá chẽm có nguồn gốc địa phương, cao hơn so với 20 euro/kg cho cá chẽm từ lồng lưới ở Địa Trung Hải.
“Chúng tôi không có bất kỳ thách thức về công nghệ nhưng có những khó khăn trong việc đảm bảo doanh số bán hàng thường xuyên trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế và bài toán hạ giá thành của hệ thống. Chúng tôi đang tìm cách đưa công nghệ từ trạng thái dự án sang sản xuất tập trung, điều này sẽ giúp giảm giá”, Akermann cho biết thêm.