Bài chòi ngày xuân

Lê Hồng Khánh - Thứ Sáu, 13/01/2023 , 06:20 (GMT+7)

Bài chòi là trò giải trí tao nhã, hào hứng, lấy vui làm chính, không vị chuyện sát phạt, đỏ đen, vừa giàu tính nhân văn vừa nhắc nhở ai nấy sửa mình.

Empty

Chơi bài chòi ở Quảng Ngãi.

Gọi là “bài chòi” vì muốn chơi loại bài này người ta phải cất chòi, dựng trại. Đây là một thú chơi mộc mạc nhưng tao nhã của người bình dân vùng duyên hải Trung bộ, từ Quảng Bình, Quảng Trị cho đến Phú Yên, Khánh Hòa.

Tuỳ thuộc vào diện tích sân rộng hay hẹp và tập quán chơi bài của mỗi địa phương mà người ta dựng từ 8 đến 10 chòi, nhưng phổ biến là lối chơi 9 chòi.

Trên mặt sân đất trống của sân đình hoặc sân chợ, người ta bố trí các chòi, trại theo hình chữ nhật, mặt quay vào trong sân. Nếu là 9 chòi thì trên hai cạnh dài dựng mỗi bên bốn chòi, đối diện và tương ứng nhau từng cặp một. Giữa một trong hai cạnh ngắn cất chòi trung ương. Đối diện chòi trung ương là rạp hội đồng, dành cho Ban trị sự. Rạp hội đồng có trống chầu dành cho người điều khiển cuộc chơi, một chiếc bàn lớn đặt khay tiền và những lá cờ hiệu, cạnh đó là chỗ ngồi của dàn nhạc gồm 1 sanh, 1 nhị, 1 kèn, 1 trống tum, có khi thêm 1 phèng la.

Khoảng đất trống ở giữa là sân khấu trệt bốn mặt. Đây là không gian dành cho một nhân vật đặc biệt, làm nhiệm vụ quản trò, gọi là Hiệu. Tùy theo tuổi tác và giới tính, người ta gọi là anh Hiệu, chú Hiệu, hay cô Hiệu. Người này phải rành các điệu hát, điệu hò quen thuộc, nhớ nhiều thơ và ca dao, biết pha trò, giỏi ứng tác. Hiệu là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự hấp dẫn của bài chòi. Hiệu có thể là một người, nhưng thường thì có 2 người, một nam một nữ, cũng có khi thêm người thứ ba, làm nhiệm vụ thay bài. Hiệu mặc áo dài, đội khăn đóng, thắt dây lưng đỏ, mặt đánh phấn thoa son như đào kép hát bội.

Empty

Con bài chòi Quảng Nam.

Đánh bài thì phải có con bài, đó là những thẻ tre, một đầu bè ra như đầu đũa cả để dán lá bài. Đầu kia nhỏ hơn, vót tròn vê nhọn. Các chân bài nhuộm màu đỏ, giống hệt nhau để khi cho đầu dán bài vào ống thì không phân biệt được từng con bài.

Bộ thẻ bài chòi gồm 27 cặp, chia làm 3 pho (Văn, Vạn, Sách) với các con bài có tên cụ thể . Dù có tên như vậy, nhưng trên mỗi con bài người ta chỉ dùng mực vẽ hoặc in những hình gợi tả theo kiểu vừa siêu thực, vừa phồn thực, làm ký hiệu.

Từ 27 cặp bài (mỗi cặp 2 con bài giống nhau) người ta đem 27 con bài bỏ vào ống. 27 con bài còn lại đem dán vào 9 thẻ lớn, mỗi thẻ 3 con bài để phát cho 9 chòi (mỗi chòi một thẻ), nên thẻ lớn còn gọi là thẻ chòi.

Cuộc chơi bắt đầu, trống chầu một hồi ba tiếng gióng lên. Giàn nhạc tiếp theo phụ họa. Những người chơi lên ngồi trên chòi theo sắp xếp của Ban trị sự. Họ có thể rủ bạn bè, thân nhân lên ngồi trong chòi của mình. Hiệu bưng khay đến từng chòi phát bài và thu tiền. Người chơi nhận bài, rồi găm vào khúc chuối hay bó rơm để sẵn. Phát bài xong, Hiệu đến trước rạp vái chào Ban trị sự, rồi hô lớn: “Bài phát ra đã đủ, xin cho Hiệu tính tiền!”. Người điều khiển cuộc chơi đáp lại bằng ba tiếng trống chầu. Một tiếng “Dạ!” vang lên, Hiệu gom tiền, đếm cẩn thận rồi giao cho Ban Trị sự.

Empty

Con bài chòi Bình Định.

Lại thêm một hồi trống. Hiệu dùng hai tay bụm ống tre đựng thẻ lắc đều nhiều lần cho các con bài trộn lẫn vào nhau. Nhón tay rút một con bài, Hiệu ra bộ tản lơ, đủng đỉnh. Tiếng trống chầu thúc liên hồi, âm nhạc tưng bừng, rộn rã, kích thích mọi người. Hiệu múa chân tay, vái chào quan khách và khán giả rồi mới cất giọng hô điệu bài chòi bằng hai câu thơ hay cả bài lục bát.

Gió xuân phảng phất ngọn tre

Bà con, cô bác lắng nghe bài chòi...

Lời hô có thể ngắn hoặc dài, câu hát có thể thâm trầm ý nhị hoặc hài hước, tếu táo, nhưng câu cuối bao giờ cũng có những từ chỉ định hoặc gợi ý tên con bài vừa mới rút được:

Hồi nào đói rách có qua

Bây giờ nên xưởng, nên nhà thì lơ.

...Là con Sáu Xưởng!

Một trong những cái thú của bài chòi là trong khi Hiệu ngân nga câu hát thì mọi người chăm chú lắng nghe và suy đoán tên con bài. Những tay Hiệu tài hoa nhiều khi đẩy đưa câu hát khiến người nghe đoán già đoán non, rồi bất ngờ ngoặt sang hướng khác để kết thúc. Người nghe, người chơi ồ lên tán thưởng, vì cách “đảo chiều” câu hát vượt ra ngoài dự đoán của mọi người, nhưng lại hợp lý, chính xác.

Tên con bài được xướng lên, chòi nào có bài trùng với con bài ấy, đáp lại bằng ba tiếng mõ. Nếu là chòi trung ương trúng thì đánh ba tiếng trống tum. Hiệu trao thẻ bài cho người chạy bài đem đến chòi trúng. Người chơi đón lấy con bài ấy được găm vào khúc chuối cây hay bó rơm. Hiệu lại tiếp tục lắc ống rồi rút con bài khác, theo thủ tục hô bài như đã nói trên.

Ban đầu trong ống có 27 thẻ bài, nhưng bớt dần theo mỗi lần rút thẻ, cho đến khi có một chòi trúng được ba lần, tức là bài “tới” thì mới chấm dứt ván bài. Khi Hiệu hô xong con bài, nếu có chòi tới thì báo hiệu bằng một hồi mõ dài, chòi trung ương thì báo một hồi trống tum. Từ rạp, Ban trị sự cho nổi lên hồi trống chầu báo hiệu có người thắng cuộc và xong một ván bài. Lúc này Hiệu chạy đi các chòi thu hồi thẻ bài, sau đó bưng đến chòi trúng thưởng chiếc khay đựng tiền và lá cờ đuôi nheo xanh đỏ. Người chơi ở chòi trúng thưởng nhận tiền, lấy ra một ít thưởng cho Hiệu. Hiệu lại múa hát tạ ơn, dùng những lời ca tri ân, chúc phúc, cầu năm mới an lành. Cờ thưởng cắm lên chòi trúng thưởng, tỏ điều may mắn, hứa hẹn tân niên thành đạt.

Một thời gian về sau, để thuận lợi trong các cuộc chơi quy mô nhỏ, bài chòi chơi 9 chòi, chuyển thành bài chòi 9 ghế, gọi là Bài chòi ghế, rồi trở thành Bài chòi chiếu. Bài chòi chiếu đánh dấu bước tiến dài trên đường tách rời cuộc chơi bài vào ngày tết để chuyển mình thành một hình thức diễn tấu dân gian.

Empty

Một buổi trình diễn bài chòi ở Hoà Vang (Đà Nẵng).

Từ những năm ba mươi của thế kỷ XX,  ở Bình Định, rồi sau đó là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, bài chòi bước lên sân khấu với Bài chòi lớp, rồi Bài chòi truyện. Bài chòi lớp diễn một hoặc vài lớp hát, như kiểu diễn trích đoạn ngày nay. Bài chòi truyện, công phu hơn, có ông bầu, có đào kép sắm vai, có lớp hát, có tích tuồng mượn từ tuồng cổ hoặc truyện Nôm. Các gánh bài chòi truyện, ngoài những buổi diễn ở bổn quán, còn được mời đi diễn ở nhiều phủ, huyện khác, thậm chí ra ngoài tỉnh, như các gánh bài chòi ở Bồng Sơn, Tam Quan (Bình Định) ra diễn ở Sa Huỳnh (Quảng Ngãi)

Sau hiệp định Genève - 1954, trên đất Bắc, từ Đoàn Văn công Liên khu V, các nghệ sỹ  quê ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định (Lệ Thi, Ngô Quang Thắng, Nguyễn Tường Nhẫn, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Kiểm, Đinh Thái Sơn...) chung tay xây dựng kịch chủng mới: Kịch hát bài chòi. Vở diễn đầu tiên là "Thoại Khanh Châu Tuấn" (kịch bản Nguyễn Tường Nhẫn) đã thành công ngoài mong đợi, đánh dấu sự ra đời đầy triển vọng của một thể loại kịch hát mới, khai thác chất liệu từ hát bài chòi và dân ca Nam Trung bộ.

Nghệ thuật Bài chòi là một hình thức sinh hoạt văn hóa và giải trí trong cộng đồng làng xã. Các thành tố văn hóa nghệ thuật như thơ ca, âm nhạc, hội họa, ngôn ngữ, tập tục… trong nghệ thuật bài chòi được chuyển tải một cách giản dị, tự nhiên, nhưng giàu sức hấp dẫn đối với công chúng và đã trở thành sinh hoạt văn hóa phổ biến khắp các tỉnh vùng duyên hải miền Trung. Vì thế mà sinh hoạt Bài chòi trở thành môi trường thực hành và sáng tạo nghệ thuật, đồng thời cũng là nơi bảo tồn vốn văn nghệ dân gian, phong cách trình diễn và các giá trị văn hóa vùng miền.

Bài chòi là trò giải trí tao nhã, hào hứng, lấy vui làm chính, không vị chuyện sát phạt, đỏ đen. Nội dung bài chòi giàu tính nhân văn, vừa vun vén cho điều hay, lẽ phải, đạo lý làm người, ca ngợi quê hương, đất nước, tình nghĩa đồng bào, vừa phê phán những thói hư tật xấu, nhắc nhở ai nấy sửa mình.

Ngày 7/12/2017, tại Phiên họp Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 12 của UNESCO diễn ra tại Jeju, Hàn Quốc, di sản Nghệ thuật Bài chòi Trung bộ Việt Nam đã chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Lê Hồng Khánh
Tags:
Tags:
Bên dòng Kiến Giang huyền thoại
Bên dòng Kiến Giang huyền thoại3

Sự hiểu biết cùng cảm xúc rất đặc biệt của cô bé Hà Nội 12 tuổi về đất và người Lệ Thủy, Quảng Bình.

'Dân Ông Tạ' cất giữ một phần ký ức đô thị phương Nam
'Dân Ông Tạ' cất giữ một phần ký ức đô thị phương Nam

'Dân Ông Tạ' là cộng đồng người gốc Bắc di cư vào nam, được tác giả Cù Mai Công phản ánh trong bộ sách 'Sài Gòn một thuở - Dân Ông Tạ đó'.

Viết ngược từ theo sở thích làm méo mó ngôn ngữ Việt
Viết ngược từ theo sở thích làm méo mó ngôn ngữ Việt

Gần đây, trường hợp viết đảo ngược từ xuất hiện tràn lan và ngày một phát triển. Có cơ hội, có dịp là đảo ngược. Đảo lấy được. Nhà văn, nhà báo cũng đua nhau viết ngược từ.

Giá trị tiếng Việt kết nối cội nguồn người Việt khắp nơi
Giá trị tiếng Việt kết nối cội nguồn người Việt khắp nơi

Giá trị tiếng Việt trong tâm hồn người Việt, một lần nữa được nhắc nhớ qua chương trình đặc biệt kỷ niệm Giỗ tổ Hùng Vương trên Nông nghiệp Radio tối nay (18/4).

Giỗ Tổ nhớ 'Cảm tưởng của ta về Hội đền Hùng' của cụ Dương Bá Trạc
Giỗ Tổ nhớ 'Cảm tưởng của ta về Hội đền Hùng' của cụ Dương Bá Trạc

Nhà báo, nhà văn Dương Bá Trạc (1884-1944), hiệu Tuyết Huy, là anh trai của nhà giáo Dương Quảng Hàm. Cụ cùng các chiến sĩ đã sáng lập phong trào Đông Kinh nghĩa thục.

Đại tá Nguyễn Văn Hồng và cuộc chiến đấu tự nguyện bên trang viết
Đại tá Nguyễn Văn Hồng và cuộc chiến đấu tự nguyện bên trang viết

Đại tá Nguyễn Văn Hồng sau 30 năm cầm súng lại có tiếp 30 năm cầm bút, đó là nội dung tọa đàm văn chương diễn ra sáng 12/4 tại TP.HCM.

Trống quân: Tinh hoa người Đức Bác
Trống quân: Tinh hoa người Đức Bác

Hát trống quân Đức Bác là sự kết hợp giữa lời hát và nhịp điệu, cùng với những khúc hát sôi động xoay quanh các chàng trai Đức Bác và cô đào Phù Ninh.

Tiến sĩ Bùi Bá Bổng chữ đã say rồi trên những trang thơ
Tiến sĩ Bùi Bá Bổng chữ đã say rồi trên những trang thơ3

Tiến sĩ Bùi Bá Bổng thường được nhiều người biết đến với tư cách một nhà khoa học nông nghiệp, nhưng ít ai biết ông từng có thơ được in từ thời sinh viên.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hé lộ điều gì qua những đoản văn?
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hé lộ điều gì qua những đoản văn?

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã rời khỏi dương gian 23 năm, nhưng di sản nghệ thuật của ông vẫn không ngừng lôi cuốn công chúng, trong đó có những đoản văn tự tình.

Thái độ của vua - tôi triều Nguyễn đối với Phan Châu Trinh sau ‘Thư thất điều’
Thái độ của vua - tôi triều Nguyễn đối với Phan Châu Trinh sau ‘Thư thất điều’

Việc ứng xử như sách đã chép ít nhiều thể hiện sự tôn trọng đáng kể, dù 'Thư thất điều' đã khiến vua Khải Định bẽ mặt với quốc dân đồng bào ở trong và ngoài nước lúc đó.

Hà Giang hút khách
Hà Giang hút khách

Thị trấn Đồng Văn giờ khác lắm. Cầu trời, năm mười năm nữa, Đồng Văn sẽ không theo bước Tam Đảo, Sa Pa, nhà tầng chất ngất cướp mất dáng núi, thung mây...

Về một bản dịch ‘Thư thất điều’ của cụ Phan Châu Trinh
Về một bản dịch ‘Thư thất điều’ của cụ Phan Châu Trinh

Trong bài văn tế Phan Châu Trinh, Sào Nam Phan Bội Châu đánh giá 'Thư thất điều đón giá như Tây, uy sấm chớp chẳng kinh cùng chẳng hãi'.