Giáo sư Andrea Hoa Pham: 'Ngôn ngữ luôn biến đổi'

Andrea Hoa Pham - Thứ Sáu, 15/03/2024 , 06:30 (GMT+7)

Một người dạy tiếng Việt ở Mỹ, giáo sư Andrea Hoa Pham cho rằng, ngôn ngữ luôn luôn biến đổi, dù muốn hay không cũng không ngăn được thực tế ấy.

Ngôn ngữ luôn luôn biến đổi, dù muốn hay không cũng không ngăn được thực tế ấy. Ảnh minh họa.

Ngôn ngữ luôn luôn biến đổi, dù muốn hay không cũng không ngăn được thực tế ấy. Ảnh minh họa.

Giáo sư ngôn ngữ học Andrea Hoa Pham, dạy tiếng Việt, Văn hóa Việt Nam và Ngôn ngữ học, Viện Đại học Florida, Hoa Kỳ.

Có lần tôi hỏi sinh viên vào buổi học đầu tiên "Tiếng Việt được nói ở đâu trên thế giới?". Một em người Mỹ gốc Việt giơ tay: "Dạ thưa cô, ở California."

Một phụ huynh vừa than phiền trên mạng xã hội về việc nhà trường dạy tiếng Việt cho con, cho đặt câu với chữ "khốn nạn" (với nghĩa là khổ sở, cùng cực) và "nhung nhúc" (Trên sân vận động nhung nhúc toàn người và người). Vị phụ huynh phản đối vì những từ này dùng với nghĩa như trên đã lạc hậu từ lâu rồi. Đúng vậy. Từ "khốn nạn" trong quá khứ đã từng không mang nghĩa xấu.

Học giả Nguyễn Văn Vĩnh dịch cuốn tiểu thuyết lừng danh Les Misérables của Victor Hugo năm 1926 với nhan đề Những kẻ khốn nạn. Tuy nhiên, có thể hiện nay, ở một làng quê nào đó ở miền Bắc Việt Nam cũng còn những bà mẹ khi than vãn về chồng con, thốt lên trong cơn phiền muộn "Khốn khổ khốn nạn cho thân tôi chưa!". Khốn khổ, khốn cùng, khốn nạn từng cùng thuộc về một trường nghĩa.

Đây là một ví dụ sống động cho thấy ngôn ngữ/phương ngữ không ngừng biến đổi. Tiếng nào cũng biến đổi, thậm chí không cứ phải có tiếp xúc. Dù cộng đồng nói tiếng ấy, phương ngữ ấy có sống ở một nơi hoang vu, cô lập thì cũng biến đổi theo thời gian, tuy chậm chạp hơn nhiều. Khi đứa bé học theo cha mẹ, nói một từ nào đó, phát âm của em bé cũng đã không giống hệt cha mẹ rồi, chưa kể so với anh chị em trong nhà. Cái khác này người ta không để ý.

Từ vựng cho thấy rõ nhất sự biến đổi của một ngôn ngữ hay phương ngữ. Ngôn ngữ, phương ngữ là cái bám chặt vào đời sống, vào cộng đồng. Cộng đồng nhỏ nhất là gia đình, rồi ra tới hàng xóm láng giềng. Khi đời sống thay đổi, nhu cầu của con người thay đổi, thì ngôn ngữ cũng thay đổi theo. Có những từ sinh ra rồi mất đi. Ví dụ bây giờ chẳng người đàn ông nào còn nói chuyện mà gọi người đối diện là "nàng" và xưng "ta". Những kiểu tự xưng như "trẫm", "mỗ" hoặc âu yếm gọi người phụ nữ nào đó bằng "nàng" chỉ là dùng trong phạm vi cá nhân, không phải là norm, cái bình thường mà trong xã hội ai cũng nói như thế.  

Lớp từ về kỹ thuật, sinh hoạt văn hoá hay âm nhạc thu nạp từ vựng mới nhanh nhất. Tiếng Việt hơn nửa thế kỷ trước làm sao biết được những i-meo (email) hay híp bi, híp pi (hippie). Hai mươi năm trước có lẽ cũng chưa có diva (Wikipedia cho rằng từ này phổ biến ở Việt Nam đầu những năm 2000). Vài năm trước đây, từ xíp bơ (shipper) dường như cũng chưa thông dụng. Cho đến đầu thế kỷ thứ 20, "đồng chí" không phải là từ xưng hô cửa miệng. Trước năm 1975 ở miền Nam, các từ như "khẩn trương", "quán triệt"... cũng không xuất hiện nhan nhản trên báo đài. Thậm chí một từ bình thường như "tốt" cũng không được dùng để thay một loạt các từ khác chỉ các phẩm chất hoặc cách làm tối ưu.

Việc một từ chuyển nghĩa thành yếu đi (semantic bleaching) so với cách dùng trước đó xảy ra với tất cả các ngôn ngữ trên thế giới. Ngày nay trong tiếng Anh, người ta có thể khen một món ăn sau khi nếm thử với các từ như unbelievable, awesome. Tuy nhiên nửa thế kỷ trước, các từ ấy chỉ dùng với nghĩa gốc, tức chỉ cái gì đó thật sự là không thể tin nổi, hoặc vượt quá sức chờ đợi, chứ không phải chỉ là để nói về một món mì Ý nào đó.

Ngày nay nếu khen một món ăn là "Ok" thì người nghe nghĩ rằng người nói hững hờ, không hài lòng lắm với món ấy. Hoặc khi Shakespeare viết vở hài kịch Much Ado About Nothing cuối thế kỷ thứ 16, dùng từ naughty để miêu tả Don John, một nhân vật xấu với nghĩa evil (quỷ sứ, ác độc) đã gây không ít bối rối cho những người biểu diễn ngày nay, vì naughty hiện tại chỉ còn mang nghĩa hơi xấu, pha chút nghịch ngợm. Việc biến nghĩa từ tuy của cùng một ngôn ngữ còn gắn với văn hoá địa phương. Khi người Anh và người Mỹ cùng nói rằng hôm nay họ thấy quite happy thì người Mỹ thật sự thấy hạnh phúc, vui vẻ hơn người Anh kia, vì ở Anh, quite chỉ mang nghĩa "hơi" trong khi ở Mỹ nó vẫn còn nghĩa "rất" (Royal Oxford). Đến một lúc nào đó, một từ có vẻ không còn đủ thoả mãn với ước muốn diễn đạt nữa, người ta tìm các từ khác mạnh hơn. Ví dụ từ "người mẫu", đến từ "siêu mẫu", rồi diva, như cách dùng hiện nay trong tiếng Việt.

Ngôn ngữ không thay đổi tức thì, một nhát là cắt lìa cái cũ, cũng không xảy ra đồng thời khắp mọi nơi, mà nó diễn ra từ từ, có giai đoạn chuyển hóa, và không phải ở nơi nào cũng giống nhau (đó là lý do sinh ra thổ ngữ, phương ngữ, và thậm chí các ngôn ngữ cùng gia đình). "Khốn nạn" nói ở trên là một ví dụ. Với người này, nơi này, nó còn mang nghĩa khổ sở; với người khác, nơi khác, nó chỉ còn dùng để chỉ sự xấu xa, hoặc cả hai. Hoặc là đối với một số người Việt hiện nay, từ "hay ho" không còn mang nét nghĩa xấu nữa mà dường như đã chuyển sang nét nghĩa trung hòa, thậm chí tích cực.

Dạy đại học ở Mỹ, chọn sách giáo khoa nào là quyền của thầy cô, thậm chí giáo viên không buộc phải dạy theo sách giáo khoa, miễn là dạy có bài bản, có tài liệu, và nhất là hiệu quả(*). Tôi không biết dạy tiếng Việt ở bậc tiểu học hoặc ở những lớp học thêm ở chùa hay nhà thờ thì quy định như thế nào, nhưng chắc chắn những quy định này không mang tính pháp định của ngành giáo dục sở tại, buộc mọi người phải tuân theo. Có thể thầy cô phải dạy theo giáo trình mà bộ phận chịu trách nhiệm về việc dạy tiếng Việt quyết định, nhưng không ai ngăn giáo viên giải thích thêm cho học sinh rằng ở một số từ nào đó nét nghĩa nay đã thay đổi.

Ai cũng biết ngôn ngữ, phương ngữ dù hay dở thế nào vẫn là hồn cốt, căn cước của một người. Chẳng hạn, khi yêu cầu nói "đi từ A đến B như thế nào?", sinh viên trả lời "bắt xe bớt (bus) số 45" là biết ngay cha mẹ em ấy nói giọng nam rồi. Về phát âm thì "chửi cha không bằng pha tiếng". Nhạo báng phương ngữ hay ngôn ngữ của một người là xúc phạm nặng nề đến cái làm nên hồn cốt chẳng những của người ấy, mà còn của dòng họ, tổ tiên người ấy. Vì thế, bảo vệ giữ gìn cái hồn cốt ấy hệ trọng như thế nào là điều dễ hiểu. Cũng như vậy, khi nguyên nhân của việc bảo vệ "tiếng nói" bắt nguồn từ (hoặc liên quan đến) việc thay đổi thể chế, cái thể chế gắn liền với cuộc đời của một người hoặc nhóm người nào đó, thì người ta không dễ dàng chấp nhận cũng là điều dễ hiểu.

Ngôn ngữ không thay đổi tức thì, một nhát là cắt lìa cái cũ, cũng không xảy ra đồng thời khắp mọi nơi, mà nó diễn ra từ từ, có giai đoạn chuyển hóa. Ảnh minh họa.

Ngôn ngữ không thay đổi tức thì, một nhát là cắt lìa cái cũ, cũng không xảy ra đồng thời khắp mọi nơi, mà nó diễn ra từ từ, có giai đoạn chuyển hóa. Ảnh minh họa.

Có một câu chuyện, hoặc giai thoại cũng được, là lần một sinh viên lên gặp tôi ở văn phòng, nói chen lẫn tiếng nghẹn ngào "Em thích lớp tiếng Việt của cô, nhưng xin cô đừng dạy chúng em những từ Cộng sản, vì khi về nhà nói chuyện, ba mẹ em lại không cho học lớp cô nữa". Tôi đi từ ngạc nhiên sang tò mò: "Vậy ba mẹ nói từ nào là Cộng sản?". "Dạ, như từ hộ chiếu ạ". Tất nhiên với người nghiên cứu ngôn ngữ hoặc dạy tiếng, thì không có từ nào là "từ Cộng sản", cũng như không có từ nào là từ "không Cộng sản". Từ điển Anh - Việt 1985 của Viện Khoa học Xã hội, Từ điển Pháp - Việt 1986 của Viện Ngôn Ngữ, Tân đại từ điển Việt - Anh 1975 của Nguyễn Văn Tạo đều dịch passport là "hộ chiếu". Cho đến tận giờ này tôi vẫn không thể nhớ được trước đây miền Nam Việt Nam gọi passport là gì. Có lẽ vì lúc ấy chuyện xuất ngoại với những thủ tục giấy tờ liên quan không phổ biến ("phổ biến" cũng là một từ dùng nhiều sau năm 1975) như hiện nay, nên các từ ấy ít xuất hiện trên sách báo chăng? Ngày nay, "giấy thông hành" đã bị thay thế bằng một từ khác, cũng là từ vay mượn, visa. Hai từ này đều chỉ một thứ mà ngày nay hiện diện trong đời sống hàng ngày thường xuyên hơn gấp bội so với vài chục năm trước, song không thấy ai nói visa là "từ Cộng sản".

Vì từ ngữ không ngừng sinh ra và mất đi, nên những người sống ở nước ngoài thường gắng tiếp xúc với ngôn ngữ dùng ở Việt Nam nếu muốn cập nhật. Song lớp từ lóng thì không thể nào đuổi kịp, hoặc biết nhưng ngần ngại dùng nó. Từ lóng là một loại biệt ngữ, có "văn hoá, căn cước nội bộ", thường gắn với một thời kỳ, một giai đoạn nào đó trong cuộc sống của một người. Ví dụ một từ có vẻ rất thông dụng là "bà tám", hoặc vắn tắt là "tám". Trước đây tôi chỉ biết từ "tán gẫu". Hàng ngày nói chuyện với bạn bè hoặc chị em, ai nấy cũng dùng tám, nhưng tôi vẫn khăng khăng "tán gẫu", vì "bà tám" xa lạ với tôi. Việc không dùng "bà tám" hay "tám chuyện" có lẽ là cái ương ngạnh níu kéo hoài niệm về một phần đời đã qua, ở một nơi mà nay nhiều thứ cũng đã hoàn toàn thay đổi. Rồi tự an ủi "rốt cục, từ lóng sớm muộn cũng sẽ bị thay thế bằng từ khác mà."

Đối với tiếng Việt như một sinh ngữ, thì ngày nay với Tik TokInstagram, những nỗ lực duy trì một phiên bản tiếng Việt đã đóng băng nửa thế kỷ trước là chuyện hầu như không tưởng. Bất kể trẻ có học kiểu gì ở nhà trường, khi xem Tik Tok thì cũng như học một cái tiếng Việt khác song song. Nếu có dịp tiếp xúc với tiếng Việt do người ở Việt Nam nói, các em ấy sẽ nhanh chóng "hội nhập", hoặc học như học từ mới. Con trai tôi lớn lên ở Bắc Mỹ, vừa kể một cách hài hước "Con xem Tik Tok chương trình đố vui, nghĩ bụng mình có bằng Ph.D. làm gì không trả lời được. Câu hỏi đầu tiên là "Đại dương nào nhỏ nhất trên địa cầu?". "Ủa? Đại dương là cái gì?". Câu thứ hai cũng chịu thua vì không có vốn từ vựng đủ lớn để hiểu.

Một ngôn ngữ nếu không có văn bản miêu tả hay không được ghi âm lại, khi người cuối cùng nói tiếng ấy không còn nữa, thì ngôn ngữ ấy vĩnh viễn biến mất như chưa bao giờ tồn tại trên đời. Trường hợp tiếng Việt thì không phải thế.

Cấp bách hơn, có lẽ là nên lo lắng về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên báo chí hiện nay. 

Andrea Hoa Pham
Giá trị tiếng Việt kết nối cội nguồn người Việt khắp nơi
Giá trị tiếng Việt kết nối cội nguồn người Việt khắp nơi

Giá trị tiếng Việt trong tâm hồn người Việt, một lần nữa được nhắc nhớ qua chương trình đặc biệt kỷ niệm Giỗ tổ Hùng Vương trên Nông nghiệp Radio tối nay (18/4).

Giỗ Tổ nhớ 'Cảm tưởng của ta về Hội đền Hùng' của cụ Dương Bá Trạc
Giỗ Tổ nhớ 'Cảm tưởng của ta về Hội đền Hùng' của cụ Dương Bá Trạc

Nhà báo, nhà văn Dương Bá Trạc (1884-1944), hiệu Tuyết Huy, là anh trai của nhà giáo Dương Quảng Hàm. Cụ cùng các chiến sĩ đã sáng lập phong trào Đông Kinh nghĩa thục.

Đại tá Nguyễn Văn Hồng và cuộc chiến đấu tự nguyện bên trang viết
Đại tá Nguyễn Văn Hồng và cuộc chiến đấu tự nguyện bên trang viết

Đại tá Nguyễn Văn Hồng sau 30 năm cầm súng lại có tiếp 30 năm cầm bút, đó là nội dung tọa đàm văn chương diễn ra sáng 12/4 tại TP.HCM.

Trống quân: Tinh hoa người Đức Bác
Trống quân: Tinh hoa người Đức Bác

Hát trống quân Đức Bác là sự kết hợp giữa lời hát và nhịp điệu, cùng với những khúc hát sôi động xoay quanh các chàng trai Đức Bác và cô đào Phù Ninh.

Tiến sĩ Bùi Bá Bổng chữ đã say rồi trên những trang thơ
Tiến sĩ Bùi Bá Bổng chữ đã say rồi trên những trang thơ3

Tiến sĩ Bùi Bá Bổng thường được nhiều người biết đến với tư cách một nhà khoa học nông nghiệp, nhưng ít ai biết ông từng có thơ được in từ thời sinh viên.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hé lộ điều gì qua những đoản văn?
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hé lộ điều gì qua những đoản văn?

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã rời khỏi dương gian 23 năm, nhưng di sản nghệ thuật của ông vẫn không ngừng lôi cuốn công chúng, trong đó có những đoản văn tự tình.

Thái độ của vua - tôi triều Nguyễn đối với Phan Châu Trinh sau ‘Thư thất điều’
Thái độ của vua - tôi triều Nguyễn đối với Phan Châu Trinh sau ‘Thư thất điều’

Việc ứng xử như sách đã chép ít nhiều thể hiện sự tôn trọng đáng kể, dù 'Thư thất điều' đã khiến vua Khải Định bẽ mặt với quốc dân đồng bào ở trong và ngoài nước lúc đó.

Hà Giang hút khách
Hà Giang hút khách

Thị trấn Đồng Văn giờ khác lắm. Cầu trời, năm mười năm nữa, Đồng Văn sẽ không theo bước Tam Đảo, Sa Pa, nhà tầng chất ngất cướp mất dáng núi, thung mây...

Về một bản dịch ‘Thư thất điều’ của cụ Phan Châu Trinh
Về một bản dịch ‘Thư thất điều’ của cụ Phan Châu Trinh

Trong bài văn tế Phan Châu Trinh, Sào Nam Phan Bội Châu đánh giá 'Thư thất điều đón giá như Tây, uy sấm chớp chẳng kinh cùng chẳng hãi'.

Cửa Đạt và Cửa Đặt: Chuyện nhỏ hay không nhỏ?
Cửa Đạt và Cửa Đặt: Chuyện nhỏ hay không nhỏ?

Hãy phóng to bức hình này lên, sẽ thấy hai cái tên khác nhau: Bên này là đền “Cửa Đặt”, bên kia là chùa “Cửa Đạt”. Đặt và Đạt, có liên hệ/liên quan gì không?

Cảm nhận một người trẻ tuổi về kháng chiến qua phim Đào, phở và piano
Cảm nhận một người trẻ tuổi về kháng chiến qua phim Đào, phở và piano

Bộ phim đã khiến tôi tò mò và tôi đã tìm hiểu rộng hơn lịch sử đất nước và tinh thần chiến đấu của chiến sĩ, nhân dân ta trong kháng chiến.