Những người đàn bà đi máy bay Pháp tìm chồng qua vùng giới tuyến

Nguyễn Tâm Phùng - Thứ Bảy, 25/01/2025 , 06:00 (GMT+7)

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ vào đầu tháng 5/1954, mẹ tôi và nhiều người phụ nữ ở Quảng Bình đã vào tận Huế để tìm và cùng chồng trốn lính trở về quê…

Một buổi sáng, cha tôi đưa mẹ tôi từ trường học lái xe ở An Cựu sang chợ Đông Ba (Huế) để tìm cách quay ra Quảng Bình. Lúc này, chợ Đông Ba cũng bình yên với nhiều sắc phục áo lính Pháp và lính người Việt. Nhiều người lính đi cùng gia đình vào chợ sắm sửa đồ dùng.

Làm “ma-đam” sỹ quan Pháp

Làng tôi cách thành phố Đồng Hới khoảng 20 cây số về phía Nam. Làng nằm ven quốc lộ, trước là con sông Kiến Giang uốn khúc, sau lưng là những dãy núi cát trùng điệp. Cha tôi mồ côi từ bé, lớn lên chỉ nhờ những củ sắn củ khoai, đi ở đợ hoặc làm thuê mà lớn lên. Khi ba cưới mẹ được một thời gian thì thoát ly vào bộ đội Trung đoàn 10 bộ đội địa phương lúc đó. Theo lời cha thì được mấy tháng ở rừng núi nên bị ốm, phù thũng, sức khỏe rất yếu. Đơn vị cho cha về quê để chữa trị bệnh. Khoảng giữa năm 1954, khi cha đã khỏe, đang tìm cách lên núi tìm đơn vị thì bị lính Pháp và dân vệ đồn Mỹ Trung bắt rồi đưa lên xe nhà binh chạy vào Huế. Ở đó, cha được điều về trường học lái xe An Cựu.

Mấy tháng sau khi cha bị bắt lính, mẹ tôi có quyết định táo bạo nhất trong cuộc đời, đó là vào Huế để tìm cha tôi và cùng cha trốn lính về quê. Dù đến ngày đi, mẹ tôi chưa một lần rời xa lũy tre phía trước làng…

Mẹ tôi và em út trong ngày tốt nghiệp Trường Đại học Nông nghiệp Huế. Ảnh: Tâm Hành.

Từ rạng sáng, mẹ được anh trai (mấy anh em tôi gọi là cậu Xự), chèo đò xuôi Kiến Giang, xuôi dòng Nhật Lệ để về thị xã Đồng Hới (lúc đó, lính Pháp vẫn đang đóng đồn ở đây). Người dân vùng quê đi Đồng Hới chỉ có hai cách là đi bộ hoặc đi đò. Từ bến đò xóm Câu, mẹ hỏi đường đi ra sân bay Lộc Ninh (sân bay Đồng Hới bây giờ), mua vé máy bay của Pháp để đi chuyến bay vào Phú Bài (Huế). Ở Huế, mẹ lần hồi tìm đến những nơi đóng quân của đồn, trại lính mới ở Quảng Bình vô. Mấy ngày sau, mẹ tìm được cha tôi khi ông vừa mới xong khóa học lái xe và vừa xong chuyến chạy thử đường dài về.

Hơn chục ngày sau, cha được ra khỏi doanh trại để đi nhận hàng. Mẹ đang ở nhờ một gia đình vợ lính khu gia binh được cha nhắn tin gặp để tìm cách quay về quê. Gặp mẹ, cha nói: “Nếu có ai hỏi thì cứ nói là ma-đam (vợ) của Trung úy Toại ở đồn Mang Cá ra Đồng Hới để đưa gia đình vào Nam”.

Thấy phía bên đường đối diện qua cổng chợ có đoàn xe “công-voa” (xe quân sự của lính Pháp) đang dừng, cha tôi mạnh dạn qua hỏi xe đi đâu. Nhìn thấy người lính đeo hàm trung sỹ nhất ngồi trên buồng lái của chiếc xe đi đầu, cha bước nhanh đến, tay móc gói thuốc lá Bastos ra mời và dò hỏi. Người lính là trưởng đoàn “công-voa” nói tiếng miền Bắc nhìn cha rồi bảo: “Xe đi ra Đồng Hới (Quảng Bình), để chở hàng vào”. Cha nói với viên trung sỹ nhất lý do và ngỏ ý xin đi nhờ. Tay trung sỹ nhất nhìn cha tôi một lúc còn chần chừ thì mẹ tôi đi đến. Thấy vậy, viên trung sỹ nhất đồng ý, nhưng vẫn dặn: “Tôi cho đi nhờ vì ông là việc nhà binh. Còn dọc đường sự thể thế nào tôi không chịu trách nhiệm nha. Mọi chuyện, ông tự lo lấy đó”.

Viên trung sỹ nhất nói quả không sai. Khi đoàn xe vừa qua cầu An Hòa (lúc đó được xem là ra khỏi thành phố Huế), thì đã bị chặn lại ngay sát cái lô cốt bên đường. Một toán lính Pháp ra hiệu mọi người xuống xe để kiểm soát giấy tờ. Phía trên lô cốt chất đầy bao tải cát là khẩu đại liên với tấm chắn quanh nòng súng đầy lỗ tỏa nhiệt cứ lia qua, lia lại tìm mục tiêu mà ai cũng toát lạnh. Viên trung sỹ nhất lên gặp sỹ quan Pháp trình bày một lúc rồi quay về gặp cha tôi lắc đầu: “Ông lên đó mà trình bày sự vụ lệnh (như là giấy công tác bây giờ) đi nha. Không là chốt kiểm tra bắt dân thường quay lại hết đó. Ma-đam (vợ) của ông không khéo là phải quay lại thôi”.

Cha đưa mẹ đi lên đầu đoàn xe gặp viên sỹ quan Pháp. Với toàn bộ vốn liếng tiếng Pháp mà cha tôi học được trong những tháng học lái xe với người Pháp cùng với tay, chân phụ trợ thêm. Đại ý là: “Tôi tuân lệnh của ngài trung úy Toại, đưa “ma-đam” trung úy ra Đồng Hới để đưa gia đình đang còn mắc kẹt ngoài đó vào, do là việc gia đình nên không cầm theo sự vụ lệnh”. Sau này, cha mới kể lại lúc đó bí quá nên nói vậy. Còn ông trung úy Toại là có thật, nhưng cha chưa gặp bao giờ. Chỉ nghe ông này là người từng sống ở Gia Ninh, là sỹ quan có uy tín trong con mắt của sỹ quan và binh lính người Pháp lẫn Việt lúc bấy giờ tại Mang Cá (Huế).

Viên sỹ quan nhìn mẹ tôi một lúc như đánh giá cô gái với mái tóc dày, với những sợi tóc xoăn buông tự nhiên và khuôn mặt thanh tú, dáng mảnh mai trong tà áo dài Huế… thì không thể là thứ dân được. Cha tôi thì rắn rỏi trong bộ nhà binh màu cứt ngựa như một “ tà lọt” (lính hầu). Chỉ vậy mà viên sỹ quan Pháp hiểu được là ông lính Việt này đang tháp tùng “ma-đam” viên trung úy quay ra quê để đưa gia đình vào. Hợp lý. Viên sỹ quan Pháp làm một tràng “ăng-lê” nhặng xị lên. Không hiểu, nhưng qua cử chỉ là cha tôi biết mọi việc hanh thông. Viên sỹ quan Pháp đưa mẹ tôi đến đoàn xe và xếp vào ngồi trong buồng lái vì là “ma-đam” của sỹ quan. Còn ông lính tháp thùng là cha tôi được đi theo và ngồi trên thùng xe. Đoàn “công-voa” tiếp tục lên đường.

Xe ra đến đồn Hòa Luật Nam (thuộc xã Cam Thủy, huyện Lệ Thủy bây giờ), thì bị chặn lại. Đồn Hòa Luật Nam hồi đó khét tiếng là tàn ác vì lính đồn luôn càn quét các làng mạc lân cận để tìm Việt Minh và thường bắn giết người vô tội vạ. Đồn án ngữ ngay tuyến đường quốc lộ. Bên trái là vùng đồng ruộng, đầm lầy. Bên phải là những tràng cát nên việc qua lại của bộ đội ta hay của dân thường đều rất khó khăn. Đoàn xe bị chặn lại hơn giờ đồng hồ mà vẫn chưa có tín hiệu cho đi. Cả cha và mẹ tôi đều lo lắng. Nhìn viên sỹ quan đồn trưởng mặt đỏ gay cứ hết nhìn cha tôi đến nhìn mẹ tôi một cách xoi mó, cha tôi cứ phán đoán lính ở đồn đang tìm cách liên lạc vào Huế để xác minh minh trường hợp của người nhà trung úy Toại.

Thêm một giờ đồng hồ nữa thì đoàn xe mới được lệnh chuyển bánh. Thì ra, đoạn đường phía trước được thông báo là bộ đội địa phương đặt mìn đánh xe quan Pháp. Lính đồn chặn ô tô không cho đi để tìm kiếm và tháo bom mìn. Khi tháo xong mới cho xe tiếp tục đi. Thật hú vía…

Đoàn “công-voa” đến thị xã Đồng Hới cũng đã tối. Cha gặp viên trung sỹ nhất là gửi lời cảm ơn bằng gói thuốc lá Bastos và chia tay. Cha dẫn mẹ băng qua mấy dãy phố tìm về xóm Câu hỏi nhà cậu Cơ. Câụ Cơ là người bà con với cha, sinh sống ở đây và làm nghề chài lưới trên sông Nhật Lệ. Anh em gặp được nhau mừng đến rơi nước mắt. Cậu Cơ vội lấy bộ quần áo nâu chàm giục cha thay nhanh rồi vò bộ quần áo nhà binh, lội ra bờ sông nhấn sâu xuống dưới lớp bùn. Mẹ tôi cũng được thay bộ quần áo phụ nữ và bộ áo dài cũng bị nhấn xuống sông. Cậu Cơ bảo: “Nếu người ta mà thấy bộ nhà binh của anh và áo dài của chị thì gay hung đó. Bên ta cũng đến hỏi vì nghi là chỉ điểm. Bên kia cũng đến để bắt lính đào binh. Thôi đừng tiếc chi nữa. Về được với em an toàn là mừng rồi”.

Cha, mẹ tôi phải ở trên chiếc đò của cậu Cơ hơn một tháng để ngóng dò la tin tức. Cha sợ về làng thì bị lính Pháp, tề ngụy bắt trở lại. Cho đến khi cậu Cơ bắn tin, dò hỏi ở trên làng, thấy tình hình yên ổn, mấy người bị bắt lính trốn về được đều đang ở làng thì mới yên tâm. Cậu Cơ chèo đò ngược sông Nhật Lệ đưa cha, mẹ tôi lên tá túc mấy hôm ở nhà cậu Xự rồi mới lên làng Thạch Xá Bắc…

Hơn một năm sau thì cha tôi được giấy gọi của Ủy ban hành chính tỉnh để tham gia lái xe phục vụ cách mạng.

Bà Biền (bên phải) và bà Đào ngồi bên nhau trong một lần dự đám cưới cháu. Ảnh: Tâm Phùng.

Mấy anh em tôi lần lượt ra đời, dù cuộc sống thời chiến hay thời bình thì vẫn gặp nhiều khốn khó. Vậy nhưng, cả mấy anh em đều được cha, mẹ tôi cho ăn học nên người. Các anh chị tôi đều tham gia nghĩa vụ quân sự mới vào các trường đại học. Cậu em út ở trong lực lượng hải quân đóng quân tại Cát Lái. Khi ra quân thi vào trường Đại học Nông nghiệp Huế như ước nguyện của cha tôi. Ngày em tốt nghiệp đại học thì cha đã mất. Anh cả tôi đón mẹ vào Huế. Mẹ tôi bảo: “Mấy đứa toàn học ở Hà Nội, mẹ không biết tốt nghiệp ra sao. Nay mẹ vô để coi cái thằng út nó thành kỹ sư để mừng”. Em tôi mang áo thụng xanh như màu đồng quê, đội mũ ông cử chụp ảnh với Mẹ. Mẹ tôi cứ rơm rớm nước mắt: “Ngày vô Huế để đưa cha các con trốn lính, mẹ cũng không ngờ được trở lại đây để thấy thằng út thành kỹ sư nông nghiệp. Về quê để giúp cho bà con được mùa đi con”.

Đi xuyên đêm từ Huế về quê

Ông Nguyễn Tâm Kỷ cũng bị bắt lính sau khi cưới vợ được mấy tháng. Bà Hoàng Thị Đào nói với tôi: “Lúc ông nhà tôi bị bắt lính thì nghe tin đóng quân ở Đông Hà (Quảng Trị), chứ tui cũng không hay tin gì thêm”. Lúc này, bà Đào cũng mới chỉ 21 tuổi, nghe tin có nhiều người đi tìm chồng bị bắt lính nên cũng quyết định đi tìm chồng ở miền xa. Bà kể lại: “Buổi sáng tôi cũng thuê người chèo đò về Đồng Hới, hỏi thăm đường ra sân bay và nói với lính ở đó vào Quảng Trị ở với chồng. Nghe nói vậy là binh lính ở sân bay sắp xếp cho chỗ ngồi trên chuyến máy bay chở hàng. Rạng sáng hôm sau thì máy bay hạ cánh xuống Đông Hà. Hỏi qua nhiều người, đi nhiều nơi mới tìm đến được nơi chồng đồn trú”, bà Đào nói.

Chuyện bà Đào thành vợ ông Kỷ cũng khác người. Số là bà Đào lúc đó cũng là cô thôn nữ xinh đẹp và cần cù lao động đồng áng lại được nết với họ hàng, xóm giềng nên trai làng trên, xóm dưới “thầm thương trộm nhớ”. Có người còn đánh bạo ngăn đường buông lời thăm hỏi. Vì vậy mà cha, mẹ ông Kỷ đã nhờ người mai mối rồi xin nhà bà Đào cưới hỏi. Rồi hai bên gia đình cũng tổ chức cưới xin cho đôi trẻ trong khi chú rể còn ở phương xa.

Hay tin từ người lính gác nói có vợ vào thăm, ông Kỷ xấu hổ quá không dám ra nhận mà nhờ ông Trắng (là người cùng thôn với bà Đào), là đồng ngũ ra đón vô trại gia binh. Sau đó, bà Đào ở bên khu dành cho phụ nữ, mỗi người một phòng. Buổi tối, ông Kỷ mới được đến thăm vợ, trên người mặc một bộ quần áo lính màu xanh đội mũ lính bộ binh. Cứ hai, ba hôm thì ông Kỷ được “cấp phép” ăn cơm với vợ. Hai vợ chồng ăn cơm phần như tiêu chuẩn của lính do nhà ăn của trại lính cấp.

Hai tháng sau thì ông Kỷ chuyển quân vào Huế bằng tàu hỏa trong đêm. Bà Đào lại đón xe nhà binh đi vào Huế để tìm chồng.

Ở Huế được mấy hôm, thông qua tin nhắn hỏi với các binh sỹ khác, bà Đào có liên lạc được với anh Nguyễn Tâm Thó (là anh trai ông Kỷ), đóng quân trong Huế, nên hai vợ chồng đã đi tìm gặp anh. Hai anh em gặp nhau mừng mừng tủi tủi, ôm lấy nhau mà khóc.

Ông Nguyễn Tâm Thó cưới vợ là bà Nguyễn Thị Biền vào đầu năm 1953, khi đó bà Biền mới 22 tuổi. Cưới nhau được mấy tháng thì ông Thó bị bắt lính. Giữa năm 1954, bà Biền cũng một mình khăn gói về sân bay Đồng Hới đi máy bay vận tải của Pháp vào Huế tìm chồng. Từ sân bay Phú Bài (Huế), bà tìm đường về An Lỗ (lúc đó người ta chỉ cho bà là xứ Lỗ), nơi đóng quân của chồng. Ông Thó được bạn lính trong phiên gác gọi cho ra khỏi hàng rào để gặp vợ. Vợ chồng trẻ cứ ôm nhau khóc bên hàng rào kẽm gai.

Vài tháng sau, ông Thó chuyển quân vào An Cựu. Theo chồng vào đây, nhưng vì không có khu gia binh nên bà Biền phải thuê đò của một mệ thuyền chài ở nhờ. Nghe kể là từ Quảng Bình vô thăm chồng gian truân nên mệ chủ thuyền (lâu quá nên bà Biền không còn nhớ tên), thương cảm nấu cơm cho ăn uống hằng ngày. Cứ vài tối, ông Thó lại được đồng ngũ “bố trí” ra thăm vợ.

Dù đã ngoài 90 tuổi, nhưng bà Đào vẫn thường xuyên quét dọn đường làng ngõ xóm cho sạch sẽ. Ảnh: Tâm Phùng.

Cứ ở như vậy được 4 tháng thì vợ chồng bà Đào và vợ chồng bà Biền gặp nhau. Cả mấy người bàn tính trốn trại lính thuê xe ra Đông Hà tìm đường về quê. Một buổi tối, đã hẹn trước, ôngThó và ông Kỷ trốn trại đến bờ sông An Cựu rồi cùng hai bà đi qua thành phố, qua địa phận An Hòa mới dám đi nhờ xe ra Đông Hà. Từ Đông Hà, mấy anh em khăn gói như người buôn chuyến và đi bộ theo đường rừng ra Vĩnh Linh. Do dọc đường không có quán xá nên luôn bị đói. Khát thì uống nước khe suối. Tới địa phận xã Vĩnh Thủy, đói quá, ông Thó đánh bạo vào một nhà dân xin ăn. Nghe kể chuyện trốn lính, ông cụ chủ nhà khó khăn nên vét hết hũ cũng được bát gạo đem nấu cơm. Ộng cụ còn chỉ cho ông Kỷ vạt sắn, bảo nhổ lên để nấu thêm nồi sắn ăn cho đủ. Cơm nước xong, mấy anh em xin phép cụ ông lên đường. Cụ còn đưa cho mọi người thêm bọc sắn luộc để ăn dọc đường.

Khi ra đến địa phận huyện Lệ Thủy thì phải đi ban đêm. Qua một đồng trống, cả bốn người phải trườn bò cho khỏi lộ. Rồi súng từ trong đồn bắn ra toang toác. Tiếng lính Pháp hò hét loạn nhặng xị. Mấy anh em trầm mình dưới ruộng, mặc cho đỉa chui bám vào người. Khi ngớt tiếng súng, tiếng người thì họ mới dám bò lên bờ ruộng và cứ thế bò cho đến sáng, tránh xa nơi có tiếng súng. Cả mấy anh em lại dắt díu nhau ngược ra phía cồn cát để cho an toàn. Khi đến vùng chợ Chè (xã Hồng Thủy), thấy người đi chợ khá đông nên cả mấy người an tâm hơn và theo đường lộ về đến nhà.

Bây giờ thì cả hai bà đều đã ngót tuổi 90, nhưng còn khỏe và minh mẫn lắm. Những ngày đẹp trời, hai bà lại lấy chổi tre ra quét đường ngõ và chuyện trò với người qua lại. Bà Biền cứ chép miệng “Ui chao, chuyện thì cũng kể ngắn nhưng đêm ngày thì dài lắm. Tôi đi tìm chồng từ giữa năm mà đến cuối năm đó mới đặng về nhà. Hồi đó, phải đi bộ, xin ăn, tránh đồn Pháp mất gần chục ngày mới về được làng ấy chớ”.

Sau khi về quê, cha tôi và các ông Thó, ông Kỷ đều hăng hái tham gia công tác thôn, đội ở địa phương. Cha tôi và hai ông đều được Chủ tịch tỉnh Quảng Bình tặng Bằng khen “Chiến sỹ Hai giỏi" 10 năm liên tục (1965 - 1975). Sau này, cha tôi và hai ông được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Ba.

Nguyễn Tâm Phùng
Tin khác
Hồ Chí Minh và vẻ đẹp vĩ nhân luôn tin ở con người
Hồ Chí Minh và vẻ đẹp vĩ nhân luôn tin ở con người

‘Hồ Chí Minh - Người tin ở con người’ là tuyển thơ của tác giả Hải Như, được ấn hành nhân kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tương truyền dấu chữ người thơ xưa & bước chân Đầu Đà người tu nay
Tương truyền dấu chữ người thơ xưa & bước chân Đầu Đà người tu nay

Thơ Hồ Xuân Hương có sức ảnh hưởng to lớn đến mức ngoài phần thơ 'chính hiệu', còn trên trăm bài phổ biến trong dân gian cũng được 'tương truyền' là do bà sáng tác.

‘Đóa hoa sương núi’ ẩn hiện ước mơ những đứa trẻ Raglai
‘Đóa hoa sương núi’ ẩn hiện ước mơ những đứa trẻ Raglai

‘Đóa hoa sương núi’ của tác giả Tâm An được ra mắt sáng mồng ba Tết Ất Tỵ tại lễ hội Đường sách TP.HCM, chia sẻ cuộc sống những đứa trẻ dân tộc Raglai.

'Tắt lửa lòng' của Nguyễn Công Hoan được thắp lại trên sân khấu
'Tắt lửa lòng' của Nguyễn Công Hoan được thắp lại trên sân khấu

‘Tắt lửa lòng’ của nhà văn Nguyễn Công Hoan sau 90 năm xuất hiện trên sân khấu cải lương lại được đưa lên sân khấu kịch nói vào dịp Tết Ất Tỵ.

Đánh đáo - trò chơi dân gian của trẻ con dịp Tết
Đánh đáo - trò chơi dân gian của trẻ con dịp Tết

Khắp các khoảnh đất, dưới các bụi tre, bên đình đều có xới đáo của bọn trẻ con. Quần áo mới, túi rủng rẻng, mồ hôi, mồ kê bết tóc, hăng say và cay cú.

Bầy rắn của nhà thơ Hữu Loan
Bầy rắn của nhà thơ Hữu Loan

Nhớ năm 1988, Hữu Loan trở lại Hà Nội sau bao năm biền biệt. Đưa cụ Hữu Loan cùng đám bạn bám theo về khu tập thể, chợt tôi lóe ra một quyết định.

Truyện ngắn của nhà văn Phạm Lưu Vũ: Đạo dụ tân kinh
Truyện ngắn của nhà văn Phạm Lưu Vũ: Đạo dụ tân kinh

Có câu rằng: “Số thầy thì để cho ruồi nó bâu”.

Lễ nghi Tết chốn cung đình
Lễ nghi Tết chốn cung đình

Huế đẹp không chỉ từ Quần thể di tích Cố đô mà đẹp từ trong ý thức của mỗi người về văn hóa lễ hội.

Đình nguyên Hoàng giáp Bùi Sĩ Tiêm: 'Còn một lòng âu việc nước'
Đình nguyên Hoàng giáp Bùi Sĩ Tiêm: 'Còn một lòng âu việc nước'

Cuộc đời làm quan của Bùi Sĩ Tiêm sẽ còn thăng tiến nếu ông không nói lời ngay thẳng để vạch ra những nguyên nhân khiến xã hội lúc đó rối ren, hỗn loạn.

Truyện ngắn của nhà văn Phạm Ngọc Tiến: Thăm thẳm vòng đời
Truyện ngắn của nhà văn Phạm Ngọc Tiến: Thăm thẳm vòng đời

Non tháng nữa là Tết nhưng nắng cứ vàng rờ rỡ cả ngày, còn may trời vẫn se se lạnh lúc cuối chiều nên cữ đạp xe thể thao thường nhật của ông Cả Ngưỡng xem ra nhàn nhã khác hẳn ngày hè nóng nực hay tiết thu thất thường khi oi nồng lúc mát mẻ.

Giao thừa bâng khuâng những hương vị hoài niệm xa xưa
Giao thừa bâng khuâng những hương vị hoài niệm xa xưa

Giao thừa bâng khuâng thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, như réo gọi những thanh âm một thời xa xưa từ ký ức vọng về từng đợt nôn nao.

'Trời đã mới người càng nên đổi mới'
'Trời đã mới người càng nên đổi mới'

Bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, ta hãy cùng đọc, cùng ngẫm để cùng thấm tư tưởng sống này của Phan Bội Châu.