TS Đặng Kim Sơn là người sắc sảo, cá tính. Ông từng nói ông có “50% người ưa, 50% kẻ ghét”. Nhưng những quan điểm của ông trong cuộc trò chuyện này, tin rằng sẽ có nhiều hơn “50% người ưa” ông, bởi đơn giản ông đã thật sự trăn trở với nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Phải thay đổi quyết liệt
Thưa TS Đặng Kim Sơn, ruộng đất luôn là vấn đề “nóng” mà độc giả NNVN quan tâm. Tích tụ ruộng đất là một chủ trương lớn trong Nghị quyết Trung ương 7 về “tam nông”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đặc biệt quan tâm tới vấn đề này. Vậy, tích tụ đất đai ở Việt Nam đang diễn ra như thế nào, thưa ông?
Trước hết, nói về quan điểm khác nhau xung quanh câu chuyện tích tụ đất đai. Theo nhận thức quen thuộc, đất đai là “tư liệu sản xuất đặc biệt”, là tài nguyên chính của sản xuất nông nghiệp. Ở một nước mà 70% dân số sống ở nông thôn, hơn 50% lao động sống nhờ nông nghiệp như Việt Nam thì đất đai là chỗ dựa, là nền tảng tổ chức sản xuất. Chăm lo cho sinh kế cho người dân nông thôn phải gắn với chủ trương chia đều ruộng đất, ngăn không để có người tích tụ nhiều đất làm địa chủ, người mất đất thành tá điền làm thuê. Quan điểm người cày có ruộng, vẫn đứng vững trong cách suy nghĩ của nhiều người, ngay những người làm công tác quản lý nhà nước, đó là khía cạnh công bằng xã hội.
Tuy nhiên, nếu xét về khía cạnh hiệu quả kinh tế thì sản xuất nông nghiệp ở một quy mô nhất định thì mới có lời cao nhất. Sản xuất ở quy mô nhỏ cũng có thể cho năng suất rất cao, nhưng thu nhập chung không đáng kể với nhu cầu. Quy mô sản xuất rộng hay hẹp tùy thuộc vào hệ thống canh tác, tức là mức độ cơ giới, hệ thống giống, công nghệ kỹ thuật, khả năng quản lý… Mức độ cơ giới hóa tăng, áp dụng khoa học công nghệ mạnh hơn thì quy mô tối ưu cũng tăng, dẫn đến nhu cầu tích tụ ruộng đất. Mà đã tích tụ thì có anh mất, có anh được.
Ở đây xuất hiện mâu thuẫn giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Một bên là công bằng, một bên là lợi nhuận. Vấn đề là chọn mục tiêu gì làm ưu tiên? Kết quả sẽ dẫn đến áp dụng chính sách gì? Muốn công bằng thì hạn điền, ngăn cản tích tụ. Muốn hiệu quả thì nâng mức hạn điền, tạo điều kiện mua bán, cho thuê đất,… Tuy nhiên, sinh kế của nông dân dù có ổn định cũng không thể tránh khỏi mất công bằng trong xã hội khi đời sống dân cư ở khối phi nông nghiệp không ngừng tăng lên nhờ có năng suất lao động cao.
Thứ hai, nói về chuyện quỹ đất sẵn có. Các nước đất rộng như Mỹ, Úc, Canada…thì quy mô một hộ nông dân hàng trăm héc - ta là chuyện bình thường. Ở Châu Âu hàng chục héc - ta, ở các nước Đông Á, Đông Nam Á quanh ta như Nhật Bản, Thái Lan chí ít cũng một vài ha. Trong khi đó, nước mình thì chỉ có hơn nửa héc - ta, lại còn chia thành nhiều mảnh. Như vậy, một anh tích tụ thì những anh khác phải ra khỏi nghề nông đi tìm nguồn sinh kế khác.
Những lao động rời khỏi nông thôn rất ít người đi được vào nhà máy, vào cơ quan. Đa số xung vào đội ngũ “cửu vạn”, “ô sin”, xe ôm, thợ xây dựng… Một đội ngũ mà người Trung Quốc gọi bằng cái từ “công - nông dân”. Tức là không ra công nhân không ra nông dân. Đó là những người làm phi nông nghiệp bằng lao động chân tay, tuy khá hơn làm nông nghiệp nhưng lúc nào cũng có thể bị mất việc, dù đi vẫn phải giữ lấy mảnh đất ở quê không dám cho thuê, không dám bán.
Đấy là anh đi ra, còn anh ở lại. Nếu có muốn tích tụ thì cũng khó đủ tiền. Trung bình thu nhập một hộ làm nông nghiệp mỗi năm chỉ tích cóp được 5-10 triệu đồng. Mua được cái tivi, cái xe máy cà tàng là hết, làm sao mà nói đến chuyện mua đất đai, mua máy móc để sản xuất lớn? Nói thế để thấy rằng lao động tuy ra khỏi nông nghiệp, nhưng mảnh đất để lại cũng không tập trung lại vào tay người sản xuất giỏi, sản xuất lớn hơn được.
Khó khăn như vậy thì xem chừng những người có giấc mơ đại điền, những cánh đồng mẫu lớn đến thời điểm này vẫn còn bế tắc?
Muốn thực sự phá được cái kiềng ba chân như tôi vừa nói phải đổi mới tư duy của lãnh đạo: tư duy về quản lý kinh tế, tư duy cả về công bằng xã hội. Công bằng xã hội là tạo cơ hội cho người lao động tiến vào tương lai chứ không phải là giữ tư liệu sản xuất quá khứ. Những thay đổi như thế phải làm một cách căn bản.
Nói bế tắc thì không đúng. Quá trình này đang diễn ra nhưng quá chậm so với năng lực và nhu cầu. Thực ra chúng ta cũng đã có những gia đình quản lý hàng trăm héc - ta. Các Cty sử dụng hàng ngàn héc - ta, các trang trại hàng ngàn đầu lợn xuất hiện khá nhiều rồi. Trong khi cũng có nhiều nông lâm trường quốc doanh trên danh nghĩa quản lý hàng chục ngàn hec - ta rất kém hiệu quả và cũng rất nhiều nhà đầu tư có vốn, có kỹ thuật đang mong đợi có đất để trồng rừng, phát triển sản xuất. Thực tế, năng lực của người dân mình, của doanh nghiệp mình còn mạnh hơn nhiều. Đất đai hiện đang là yếu tố cản trở tiềm năng tăng trưởng nông nghiệp Việt Nam.
Đúng là trong thực tế vẫn có người, ví dụ ông Ba Hạo, ông Sáu Ngoãn,… tìm cách để có những cánh đồng lớn, nhưng cách “tích tụ” vô cùng gian nan. Liệu có cách giúp họ bớt loay hoay không?
Theo tôi, muốn tích tụ được đất đai thì phải giải quyết được 3 vấn đề vĩ mô. Mảng thứ nhất gắn với thị trường lao động, thậm chí là gắn với chiến lược công nghiệp hóa: làm sao tạo ra việc làm và thu nhập phi nông nghiệp một cách chính thức cho lao động nông thôn ra đi khỏi nông nghiệp. Mảng thứ hai là tạo điều kiện cho nông dân ở lại tích tụ được đất: có vốn mua đất, mua máy, có đường, có điện áp dụng cơ giới, thủ tục thuê đất, mua đất thuận lợi, mảng này gắn với thị trường đất đai, cơ sở hạ tầng. Còn mảng thứ ba gắn với vấn đề phát triển nông thôn, quy hoạch vùng, với chính sách để có thể thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp hiện đại, qui mô lớn ở nông thôn. Ba mảng này phải lồng ghép với quá trình tái cơ cấu kinh tế chung, kể cả việc sửa đổi Luật Đất đai. Thậm chí về đổi mới Hiến pháp vì liên quan đến vấn đề sở hữu.
"Chỉ có một con đường"
Ông có hiến kế gì để giải bài toán "kiềng ba chân" vừa nêu không?
Bây giờ, cái bức xúc nhất như đã nói là đất đai. Nhưng cuối cùng, mục tiêu cốt lõi theo tôi là con người. Ở đây chính là người nông dân. Từ 70% dân số sống ở nông thôn, hơn 50% lao động nông nghiệp hôm nay, tương lai chỉ còn 5-10% lao động nông nghiệp thôi. Số còn lại phải ra đi. Nhưng đi đâu? Làm gì? Các nghiên cứu đều cho thấy rằng, trên toàn thế giới hiện nay công nghiệp càng tiến triển nhanh hơn thì càng bớt lao động đi. Nghe ra thì ngạc nhiên đấy! Mà cũng không về được thành phố. Như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh là “chết nghẹt” rồi, bây giờ tăng dân số lên gấp 5, gấp 7 lần nữa thì không thể tồn tại được. Vậy, hàng chục triệu lao động từ nông nghiệp ra đi đâu? rồi gia đình họ đi theo sẽ về đâu?
TS Đặng Kim Sơn sinh năm 1954, quê Thái Bình. Hiện ông là Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn (Bộ NN - PTNT).
Tôi rất trăn trở chuyện này. Không giải được bài toán này thì đừng nói đến chuyện tích tụ, chuyện hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn mà đến bảo vệ môi trường đất nước, phát triển kinh tế vững bền, ổn định chính trị quốc gia cũng khó. Bài toán này không phải của riêng nông nghiệp, nông thôn. Bài toán này là mô hình phát triển công nghiệp hóa trong thời đại ngày nay. Thế thì chỉ có một con đường. Đó là đi vào nền kinh tế dịch vụ!
Thế giới chia quá trình tăng trường gồm 3 bước. Bước thứ nhất, là phát triển nông nghiệp, thứ hai phát triển công nghiệp, thứ ba phát triển dịch vụ. Thường thì các nước đi theo tuần tự đó trong hàng trăm năm, nhưng chúng ta đi sau, trâu chậm uống nước đục. Nếu giữ hệ canh tác hiện nay thì nông nghiệp của chúng ta đến đỉnh về việc làm rồi. Con đường công nghiệp mới bắt đầu nhưng đã thấy không có lối ra cho bài toán lao động. Thế thì chỉ có con đường dịch vụ thôi.
Hiện nay tất cả các nền kinh tế phát triển đều thiếu lao động trẻ vì dân số già đi nhanh chóng. Một lực lượng lao động trẻ, có trình độ văn hóa, và khả năng tiếp thu tay nghề tốt như Việt Nam là rất hiếm. Nền kinh tế dịch vụ chia ra như một cái tháp. Ở trên chóp là những ngành cao cấp như thời trang, giải trí, thiết kế, chế tạo, tài chính, phần mềm… thì các nền kinh tế phát triển và đang phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Công, Ấn Độ… nắm. Ở mức phục vụ đào tạo, y tế, du lịch,… thì Singapore, Úc, Thái Lan… đang chiếm lĩnh; phần giữa có qui mô khổng lồ như xây dựng, an ninh, lái xe, buôn bán,… và phần thấp hơn nữa như giúp việc nhà, thủy thủ, vệ sinh môi trường, nông nghiệp mùa vụ… thì Philippine, Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam… đang tham gia ngày càng mạnh. Ngoài ra, ngành du lịch trải rộng ra ở các cấp.
Càng nghe ông nói thì lại thấy mông lung về câu chuyện tích tụ đất đai. Nếu cứ cái đà này, đến khi nào mới giải quyết câu chuyện này?
Câu trả lời rất buồn. “Cứ cái đà này”, nếu không giải quyết một cách dứt điểm thì đến một lúc nào đấy chúng ta không còn giải quyết nổi nữa. Nó là một cái bẫy, tôi gọi là “bẫy sản xuất nhỏ”. Bây giờ đất ở đô thị rất cao, nông thôn rất rẻ nên còn khả năng tích tụ được. Nếu cứ nhùng nhằng, thời gian cứ trôi đi thì đến lúc thị trường đất đai ở đô thị và nông thôn thông nhau, ở nông thôn không ai mua nổi đất nữa. Còn nông nghiệp sau khi lên đến đỉnh, nếu không tích tụ được đất thì sẽ đi xuống. Mất đi nước, lao động, sản xuất nông nghiệp sẽ bị bó chặt trong qui mô sản xuất nhỏ, không cơ giới hóa, thủy lợi hóa được, không có sản phẩm đồng bộ. Nông nghiệp mất khả năng cạnh tranh. Hệ quả là nhập khẩu nông sản, là trợ cấp cho nông dân, bảo hộ nông nghiệp. Đấy là cái bẫy mà Hàn Quốc, Nhật Bản… rơi vào rồi. Tất cả những nước có nền sản xuất nhỏ ở Châu Á đều có nguy cơ đi vào bẫy đó.
Vậy, muốn giải giải quyết câu chuyện này phải ở tầm nào?
Phải là vấn đề toàn cục. Nếu Vua Tự Đức nghe lời Nguyễn Trường Tộ công nghiệp hóa Việt Nam từ thời đó thì chắc chúng ta có cơ hội ấy. Tức là công nghiệp hóa xong rồi dịch vụ hóa, rồi đầu tư trở lại nông nghiệp. Còn bây giờ thế kỷ 21 rồi, lời giải ấy đã lỗi thời. Chúng ta phải đi bằng con đường khác. Vấn đề là có quyết tâm chính trị và không ngoan về giải pháp hay không? Trong thực tế có nhiều quốc gia đất chật người đông khó khăn chẳng kém ta đã tích tụ thành công đất đai, phát triển nông nghiệp hiện đại và cạnh tranh mạnh trong quá trình công nghiệp hóa như Hà Lan, Israel,…
Tôi là người mơ mộng
Nếu có một ước mơ về nông thôn, ông ước gì?
Ước mơ về nông thôn của tôi cực kỳ giản dị. Nó đã thực tế ở nhiều nơi trên thế giới rồi. Đấy là thu nhập, vị thế, quan trọng nhất là tạo cơ hội công bằng cho cư dân nông thôn phát triển không khác gì ở đô thị.
Khi ông mới về Viện, có phát biểu: “Tôi về đây để thay đổi”. Vậy, xin hỏi, đến nay còn điều gì ông chưa thay đổi được?
Tôi là người mơ mộng. Sau 5 năm, chúng tôi đã có chục tiến sĩ, vài ba chục thạc sĩ từ các nước về. Đội ngũ anh em viện tôi có 150 người, trang bị khá đầy đủ, nhiều anh em làm việc tận tình. Nhưng có nghĩa lý gì so với yêu cầu to lớn và chính đáng của 10 triệu hộ nông dân Việt Nam? Với những câu hỏi khó mình vừa nói ở trên? Chúng tôi làm được rất ít, không đáng kể cho nghiên cứu thị trường để người dân có hướng đầu tư đúng hơn. Về chính sách, chiến lược cũng rất hạn chế, chưa có nhiều mưu kế được người lãnh đạo đem dùng. Nghiên cứu về nông thôn chưa nhiều...
Tức là ông vẫn còn “mắc nợ” người nông dân nhiều điều?
Tất cả chúng ta đều mắc nợ nông dân. Từ các cấp lãnh đạo cao nhất đến từng cán bộ trong viện nghiên cứu… Chúng ta đều mắc nợ dân. Đến lúc này, nếu được, tôi vẫn cố vượt mọi trở ngại, cố làm một cơ quan nghiên cứu thực sự để trả được món nợ này.
Xin cám ơn ông!