Sắp xếp, tinh gọn bộ máy
Đặc thù là đơn vị nghiên cứu khoa học chuyên sâu, để nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng tính cạnh tranh, khoảng 10 năm trở lại đây, Viện Lúa ĐBSCL bắt đầu thực hiện sắp xếp, tinh gọn lại bộ máy hành chính. Nhất là trước bối cảnh, Viện bước vào giai đoạn hoạt động tự chủ.
Chia sẻ về những khó khăn những ngày đầu thành lập, TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên, Phó Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL bộc bạch, mỗi lần Viện nhận được công văn đến hoặc đi mất rất nhiều thời gian. Có trường hợp, công văn vừa nhận được đã hết thời hạn, ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ và chất lượng công việc của Viện.
Hơn nữa, với khối lượng các đề tài và công trình nghiên cứu khoa học rất lớn. Trong khi đó, khâu quản lý hồ sơ, giấy tờ thời gian đầu chủ yếu là thủ công, dẫn đến dễ bị thất lạc. Đặc biệt là những lần di chuyển cơ sở hạ tầng từ phòng này sang phòng khác. Hơn nữa, để tìm kiếm lại những hồ sơ được lưu trữ trước đó 4 – 5 năm cũng rất khó khăn. “Các công trình nghiên cứu hàng năm Viện rất lớn, đến một thời điểm do không đủ diện tích lưu trữ buộc phải hủy”, TS Kiều Tiên nói.
Đứng trước tốc độ phát triển của công nghệ thông tin, Viện Lúa ĐBSCL tập trung thực hiện cải cách toàn bộ các khâu liên quan đến thủ tục hành chính từ lưu trữ hồ sơ, tinh gọn lại bộ máy, kế toán… TS Kiều Tiên nhìn nhận, đến nay việc cải cách hoạt động hành chính chưa thể khẳng định là hoàn thiện nhất, nhưng đã tạo thuận lợi lớn trong hoạt động cho cán bộ của Viện Lúa ĐBSCL. Hiện nay, Viện đang xúc tiến phối hợp với một số đơn vị để phát triển phần mềm quản lý nội bộ, tiến xa hơn trong công tác điều hành.
Thành công nổi bật trong công tác cải cách hành chính của Viện Lúa ĐBSCL là tinh gọn được bộ máy, giảm được số lượng lớn cán bộ, viên chức trong toàn Viện nhưng vẫn đảm bảo chất lượng và tiến độ công việc.
TS Kiều Tiên đánh giá, trước năm 2010, tổng lượng cán bộ của Viện lên tới từ 220 – 250 người. Với bộ máy hoạt động khá cồng kềnh lên tới 15 đơn vị trực thuộc Viện, gây nhiều khó khăn trong công tác chỉ đạo, điều hành và quản lý hoạt động.
“Bộ máy có quá nhiều đầu mối, trong khi đó đề tài, dự án phải phân bổ ra cho các đơn vị nhỏ. Ban lãnh đạo Viện khi cần các thông tin liên quan đến vấn đề tổng thể, phải “nhặt” từ nhiều đơn vị nhỏ, đòi hỏi phải mất thời gian”, TS Kiều Tiên bộc bạch.
Hiện nay, Viện Lúa ĐBSCL đã sắp xếp lại, tinh gọn bộ máy với 2 phòng chức năng, 4 bộ môn nghiên cứu, 3 trung tâm sản xuất và dịch vụ. Cách làm này đã tạo thuận lợi trong công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động và phối hợp chuyên môn giữa các đơn vị trực thuộc, đồng thời số lượng cán bộ Viện giữ ở quy mô từ 140 – 150 người.
Thực tiễn chứng minh, qua gần 10 năm thực hiện tinh gọn bộ máy, đội ngũ cán bộ nghiên cứu của Viện Lúa ĐBSCL trở nên năng động, phân bổ thời gian hợp lý. Đặc biệt là đủ khả năng gánh vác khối lượng công việc ngày càng tăng cao.
TS Mai Nguyệt Lan, Phó trưởng Bộ môn Nông học - người đã công tác và gắn bó với Viện Lúa ĐBSCL trên 15 năm cho hay, so với những ngày đầu Viện đã có sự thay đổi rõ nét trong công tác cải cách hành chính, và hỗ trợ rất lớn cho cán bộ Viện trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Nếu như trước đây Viện khoán cho mỗi cán bộ thực hiện các thí nghiệm, thì hiện nay, Viện thực hiện cải cách, thành lập những tổ chuyên quản lý đồng ruộng cho tất cả các thí nghiệm. Từ đó, cán bộ phụ trách có thời gian tập trung cho kỹ thuật, để thí nghiệm đạt hiệu quả tốt và tối ưu nhất.
Rút ngắn 50% thời gian phát triển giống lúa mới
Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, tin sinh học vào chọn tạo giống lúa cũng là điểm sáng trong công cuộc cải cách hoạt động nghiên cứu khoa học của Viện Lúa ĐBSCL. Những tiến bộ kỹ thuật góp phần đưa ra dự đoán cặp lai, con lai, mang lại hiệu quả nghiên cứu tốt nhất.
TS Kiều Tiên phân tích, thời gian trước, để lai tạo thành công một giống lúa, cán bộ nghiên cứu phải tiến hành chọn tạo khoảng 100 tổ hợp lai để cho ra được 1 tổ hợp lai ưng ý. Bên cạnh đó, quỹ thời gian từ khi bắt đầu lai tạo cho đến khi phát triển thành giống lúa mới lên đến 10 năm.
Hiện nay, việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ tin sinh học vào hoạt động nghiên cứu, có thể giúp các chuyên gia dự đoán và rút ngắn thời gian. Chỉ cần 30 – 50 tổ hợp lai có thể cho ra đời và phân tích khả năng phối hợp của một giống lúa. Do đó, thời gian chọn giống có thể rút ngắn trong vòng 5 năm, rút ngắn số giờ và công lao động.
Mục tiêu cải cách hành chính trong khối khoa học tại Viện Lúa thực hiện theo phương châm “Công trình nghiên cứu tốt nhất mà tổng nguồn lực và thời gian đầu tư ít nhất”. Để đảm bảo mục tiêu trên, đòi hỏi trình độ cán bộ, chuyên gia của Viện Lúa phải được đào tạo bài bản và chuyên sâu để bắt kịp công nghệ, mang lại hiệu quả cao và nhanh hơn.
Theo thống kê của Viện Lúa ĐBSCL, đơn vị hiện có 30 cán bộ trình độ tiến sĩ, 50 – 60 thạc sĩ đã được đào tạo bài bản ở nhiều nước trên thế giới. Với đội ngũ nhân lực này, TS Kiều Tiên khẳng định, khả năng nắm bắt công nghệ hoàn toàn đảm bảo yêu cầu nghiên cứu.
Thời gian qua, thông qua các chương trình hợp tác với các địa phương trong vùng, tổ chức quốc tế và doanh nghiệp, hoạt động nghiên cứu khoa học của Viện đã được mở rộng. Viện có thể chủ động trên 50% tổng lượng ngân sách, kinh phí cho hoạt động nghiên cứu.
Để đảm bảo yêu cầu phát triển, trang thiết bị của Viện cần được hiện đại hóa và đồng bộ. Tuy nhiên, hiện nay việc đầu tư lại tập trung chủ yếu vào khâu chọn tạo giống. Các dự án đầu tư phát triển thiết bị công nghệ cao còn hạn chế, gây khó khăn cho hoạt động nghiên cứu.
Trong bối cảnh nhiều đơn vị cạnh tranh về chọn tạo giống lúa, để tiếp tục khẳng định vị thế là đơn vị nghiên cứu hàng đầu ở ĐBSCL, Viện Lúa tập trung vào hai yếu tố. Đầu tiên là tạo ra sản phẩm chất lượng đáp ứng được yêu cầu sản xuất và thị trường. Tiếp theo là nắm bắt công nghệ, nâng cao kỹ năng nghiên cứu, rút ngắn thời gian tạo ra sản phẩm.
Viện lúa ĐBSCL đang có ưu thế khi sở hữu một ngân hàng gen phong phú, với khoảng 4.000 mẫu giống lúa, được sưu tầm qua nhiều thế hệ. Trong đó có các giống lúa lúa mùa địa phương ở tất cả các tỉnh ĐBSCL, giống lúa hoang, lúa cao sản… Kể cả những nguồn gen nhập từ nước ngoài, Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) và các đối tác khác. Đó là thế mạnh khi Viện thực hiện khai thác các tính trạng, ưu thế trên cây lúa để tạo ra sản phẩm chất lượng.
Liên quan đến công tác bảo tồn nguồn gen, hiện nay Viện Lúa ĐBSCL chưa có điều kiện bảo tồn ở điều kiện tự nhiên. Các giống lúa được lưu giữ, bảo tồn trong kho lạnh và định kỳ hàng năm sẽ được trẻ hóa với số lượng nhất định, đảm bảo từ 5 – 10 năm mỗi giống lúa sẽ được trẻ hóa để giữ được đặc tính ban đầu.
Các giống lúa được bảo quản ở hệ thống 3 kho lạnh, mỗi kho có mức nhiệt độ khác nhau: Âm 20 – 30 độ C; 5 độ C và nhiệt độ bình thường. Hiện ngân hàng gen này chưa được đánh giá toàn bộ những tính trạng trên cây lúa. Viện Lúa ĐBSCL kỳ vọng thời gian tới sẽ có các đơn vị hợp tác, đầu tư để đánh giá toàn diện tính trạng ngân hàng gen này, đưa các giống lúa vào khai thác hiệu quả.