I.
Người đàn ông găm thuyền chăng te giữa sông. Đã chín năm trên sông nước như thế. Chiến tranh đã cướp đi của anh tất cả: gia đình, nhà cửa, vườn tược.
Người đàn bà gội đầu nơi bến nước. Tóc dài xõa một vùng, những vòng sóng quyện ra tận thuyền. Hai bên bến, hoa lau trải dài, trắng phất phơ. Một ngày một lần gội. Một ngày một lần thuyền anh chung chao giữa vùng sóng. Hết một mùa hè, như thế…
Sang thu, sang đông, rồi đông sang xuân…những lúc chị gội tóc nơi bến sông, anh ôm đàn nhị, hát:
Thương nhớ trông mong em ra là bao ngày tôi thương nhớ trông mong. Nhớ thương là em ơi là quặn thắt mà để trong lòng thương nhớ khôn nguôi ư… hừ…(*).
Một đêm trăng khuyết và nóng hôi hổi, trên bãi cỏ giữa mịt mùng lau hoa trắng, họ trộn vào nhau.
Chị thì thào:
- Lỡ có mang thì …
- Thì sao? - Anh hỏi. Bàn tay anh ấp trên khuôn ngực phập phồng có hai bầu vú rắn câng, núm vú tròn như hai hạt sen, rê dần xuống bụng chị.
- Thì ta cưới nhau?
- Cưới rồi ở đâu?
- Trên thuyền.
Chị giẫy nhẹ người:
- Ôi trời ơi, khi ấy thêm đủ thứ… rồi nảy ra con cái nữa…
Anh khua tay lên thân lau:
- Ở giữa bãi lau cũng xong.
Chị nhìn lên mặt trăng khuyết, vàng rực trên vòm trời đêm chi chít sao, nhoẻn cười.
Họ ôm lấy nhau, ngỡ không gì tách ra được.
Là thế mà mãi họ cũng không thành vợ chồng vì anh tứ cố vô thân, không nhà không cửa, ngoài mảnh đất mấy trăm mét vuông bỏ hoang trên làng.
Anh an ủi chị:
- Anh ước đến ngày anh bán một nửa đất lấy tiền dựng nhà mua các thứ. Bao kẻ giàu lên nhờ bán đất đó sao. Bảo bất động sản hay sao ấy. Và ta làm lễ cưới đàng hoàng.
Chị nói uể oải, giọng đượm buồn:
- Đành vậy.
Điều ước của anh sắp đến thật. Cữ ấy, người bên kia biển sang, người phía Bắc vào san ủi núi đá, làm đường lớn phía sau làng nối với một chỗ nào đấy phía thượng nguồn sông để xây dựng Khu công nghiệp. Sông sủi bọt, đục ngầu. Nhà xây gạch, nhà lợp tôn mọc lên lô xô nhanh như trong phim ảnh. Đầu làng cuối xã rậm rịch, ồn ào như có lễ lạt. Người làng dựng quán bán hàng ăn, hàng uống, hàng hút dọc đường mới mở. Nhiều kẻ nhuộm tóc đỏ, tô môi son, bỏ ruộng đồng, bỏ làng lên phố Huyện buôn bán, vào Khu công nghiệp làm thuê. Làng sắp thành phố. Người chen chân mua đất.
Anh cắm sào găm thuyền lên làng. Vườn cũ của anh không còn. Người ta đã san phẳng. Hỏi, người ta nói Dự án sẽ đề bù theo giá thị trường. Lại bảo anh đem bìa đất tới trình. Bìa đất ư? Đi hỏi thằng Mỹ ấy. Anh hét lên. Tức tối cay đắng anh về sông ngồi đầu mũi thuyền, chờ đợi chị.
Không còn thấy chị ra bến sông. Anh để mặc lưới chìm trong nước, ngày liền đêm anh đau đáu nhìn dọc con đường lên làng chỉ thấy, gió reo trong cây và cỏ dại.
Nghe đồn cha chị dẫn ông chủ Khu công nghiệp nói tiếng tây, tiếng ta ngọng nghịu về làng. Dân đứng trong các lối ngõ nhìn ra. Đến một ngày nọ, hai chiếc ô tô chở chị đi khỏi làng. Chị đi, lặng lẽ, không một lời với anh.
Hôm ấy, hoa lau dửng dưng bay trắng trời, trắng đất.
Anh bỏ thuyền, bỏ te lưới, bỏ sông đi đâu không ai biết. Mãi không thấy trở về. Dân làng đồn đại, anh bị người đàn ông đầy thế lực trên Thành phố bắt vào tù. Lại nghe anh dẫn đầu một đám giang hồ đào vàng trong núi Đà Neo, Chư Phát. Rồi nghe anh làm thủy thủ cho tàu vận tải biển của một đại gia người Hải Phòng. Lại nghe, anh kéo đàn nhị, hát xẩm ở chốn đông người.
Hư hư, thực thực.
II.
Lại nói về người đàn bà.
Từ độ lên Thành phố, chị trở nên nõn nường, môi son má phấn, có mặt ở những tiệc tùng ồn ào và nhốn nháo những con người ăn mặc sang trọng, nồng nàn mùi nước hoa Victoria. Đang thế thì một người hát xẩm xuất hiện. Và tiếng hát anh ta nấc nghẹn, buồn não len lách giữa ồn ào và nhốn nháo kia:
Mười tám cái xuân xanh em bỏ người tình. Mười tám cái xuân xanh em bỏ người tình em đi ư hư..Mỏi mòn là em ơi người đợi, người trông ư ư. Thuyền lênh đênh trôi là em ơi, lau trắng, trắng rơi trôi theo con nước ư ư. Thủy chung chớ em ơi bạc ơ là bạc ư màu. Chớ lòng đau đã từng, đã từng em ơi… ư hừ…(*).
Chị nghe, thẫn thờ giữa đám đông.
Đêm đêm, tiếng hát bay vào tận phòng ngủ vợ chồng chị. Chị dón chân đến bên cửa sổ nhìn bóng anh đơn độc ngồi ôm cây đàn nhị dưới gốc cây bằng lăng trứơc cổng.
Tiếng hát thì quặn thắt đêm.
Từ ấy chẳng hiểu sao, tóc người đàn bà cứ bạc trắng dần. Mươi ngày, nửa tháng chị lại đến hiệu nhuộm tóc. Mười ngày, nửa tháng, những sợi tóc lại bạc, bắt đầu từ gốc… Vào tuổi bốn mươi chị thôi nhuộm, mái tóc trắng rũ.
Người đàn ông như chỉ chờ có thế, anh bỏ thành phố trở về chốn xưa.
Từ ấy người đàn bà không còn thấy bóng dáng người hát sẩm đâu nữa. Nhưng lạ là chị vẫn nghe thổn thức bốn phía chung quanh:
Hồ mong cho người là em ơi đi chín sông ơi mười bến,ơ hồ mong cho người ư ư ư …Thương nhau đã từng, đã từng em ơi, Đứng ngóng trông theo em ơi nỏ thấy, thấy em đâu nào. Hương thừa là có bên sông hỡi chứ để hoa lau trắng bên sông.. Hỡi chứ để hoa buồn thương nhớ em ơi…ư...hừ…(*).
III.
Mùa xuân năm….Người đàn bà xuất hiện ở bến sông. Bấy giờ đã quá chiều. sông trôi mềm mại giữa hai bờ hoa lau trắng.
Mưa phùn giăng mắc. Chị ngồi nơi bến nước. Anh xếp bằng đầu mũi thuyền, cây đàn nhị tựa vào vai.
- Hắn đi rồi à ? Anh hỏi.
Chị thở dài :
- Ờ…
Anh có vẻ ngậm ngùi:
- Nhưng mà … Vì đâu ra nông nỗi…
Chị nói, gần như thì thào:
- Hắn đi, hắn đi với những cô gái tóc xanh, hắn về nơi hắn ra đi.
Anh nhìn vào mắt chị, giọng trách cứ:
- Thế nên đấy mới về đây chớ gì?
Chị vuốt mái tóc bạc, lí nhí:
- Ờ… Trên ấy…
- Cái nhà cứ rộng rênh ra à?
- Chỉ một mình mà.
- Thì sao?
Lặng một lúc, chị ngửng nhìn anh, hỏi:
- Già rồi chưa?
Anh đáp liền:
- Thì vẫn còn trẻ.
- Trẻ à? - Người đàn bà rưng rưng - Bao nhiêu là mùa hoa lau.
- Vài chục… Cứ bạc trắng - Anh bâng quơ và dựng cần nhị, run run cầm vĩ:
Hồ mong cho người là em ơi đi chín sông ơi mười bến, ư hồ mong cho người ư ư ư… Thương nhau đã từng, đã từng em ơi, Thương nhau đã từng, đã từng em ơi…ư ư ư…(*).
Chị vục tay xuống nước sông. Không còn tóc xanh để gội. Bỗng cảm thấy buồn nao lòng. Nếu từ xưa lại nay người ấy cứ găm thuyền giữa sông và mình cứ ngồi nơi bến nước này…
Thương nhớ trông mong em ra là bao ngày tôi thương nhớ trông mong. Nhớ thương là em ơi là quặn thắt mà để trong lòng thương nhớ khôn nguôi ư…hừ…(*).
Chị nói vọi ra sông:
- Thôi, đủ rồi. Lên bờ đi…
………………………
Xẩm nhân tư: Một làn điệu Hát xẩm.
(*) Phỏng theo "Xẩm nhân tư"; rút trong "Âm nhạc Dân gian Xứ Nghệ"; Lê Hàm - Chủ biên; Hội Văn nghệ Dân gian Nghệ An; XB: 2000.