| Hotline: 0983.970.780

Bón phân NPK-S Lâm Thao cho cây dâu tằm

Thứ Năm 22/10/2020 , 08:15 (GMT+7)

Cả ngàn năm nay người Việt đã trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa tuy nhiên thực tế ở nhiều vùng dân lại không biết cách chăm bón cây dâu tằm sao cho đúng

Đặc điểm sinh lý

Cây dâu tằm tên khoa học là Morus alba  L, thuộc họ Dâu tằm Moraceae. Có 5 nhóm dâu trồng trọt chủ yếu ở Việt Nam: Nhóm dâu bầu - bầu trắng, bầu tía, bầu đen, bầu xanh. Nhóm dâu đa - đa Hà Bắc (dâu Hà Bắc), đa Hà Đông, đa Thái Bình (đa liễu), đa xanh, dâu ô (ô Nghệ An), đa vàng, đa tím. Nhóm dâu cỏ - cỏ chân vịt, cỏ duối, cỏ lèo (lèo vả, lèo dương). Nhóm dâu tam bội (đa bội) -  dâu tam bội số 7, số 12, số 11, số 34, là nhóm dâu mới được tạo từ những năm 70.  Nhóm nhập nội và được thuần hóa -  dâu kinh tang, dâu Triều Tiên, dâu Bungari, dâu các nước Trung Á, dâu Kawa 2 của Ấn Độ.

Dâu là cây sống lâu năm có chu kỳ sống bắt đầu từ cây con, trưởng thành, già và chết. Cây dâu có thể sống 200 - 300 năm, thậm chí 1.000 năm. Do tác động của con người: đốn tỉa, chăm sóc, khai thác lá, thông thường cây dâu trồng bằng hạt chỉ sống trên 50 năm, trồng bằng hom khoảng 20 - 30 năm. Mỗi năm hái lá 8 -10 đợt; vụ xuân khoảng 25 ngày /đợt; vụ hè khoảng 20 ngày/đợt; vụ thu khoảng 35 ngày/đợt; có thể hái đến tháng 12. Trong một năm do thay đổi của thời tiết và tác động của con người, cây dâu trải qua 4 thời kỳ:

Thời kỳ nảy mầm: Tính từ tháng 2, lúc các mầm mùa đông nhú ra, bao mầm bị phá vỡ đến khi xuất hiện chiếc lá thứ nhất. Thời kỳ nảy mầm chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn nảy mầm - các lá vảy tách ra khỏi mầm, thấy màu xanh của các lá non bên trong. Giai đoạn đuôi én - sau khi nảy mầm 8-10 ngày, lá non xuất hiện giống như hình dạng đuôi chim én. Giai đoạn có lá thật - sau thời kỳ đuôi én 4-5 ngày, lá sinh trưởng nhanh và tách ra độc lập thành một lá hoàn chỉnh. Thường sau khi cây đào Prunus aersica nẩy lộc được 20-30 ngày thì cây dâu bắt đầu nảy mầm. Chất lượng sống của thời kỳ nảy mầm phụ thuộc vào lượng chất dự trữ trong cây do chăm sóc, bón phân, tưới nước từ vụ thu đông năm trước. Điều kiện thích hợp: nhiệt đô không khí > 12 độ C, độ ẩm đất 70- 75%.

Thời kỳ sinh trưởng mạnh: Tính từ khi xuất hiện lá thật thứ nhất, khoảng cuối tháng 2 đầu tháng 3 đến tháng 10 hàng năm. Tốc độ sinh trưởng của cây dâu tăng nhanh sau khi ra lá thật thứ 4. Trong thời kỳ sinh trưởng mạnh năng suất lá dâu chiếm 80% tổng năng suất lá cả năm. Điều kiện thích hợp: Nhiệt độ không khí 30 - 32 độ C, độ ẩm đất 70 - 75%. Bón phân đầy đủ rất quan trong, đảm bảo năng suất và chất lượng lá dâu đồng thời tạo tiền đề tốt cho vụ dâu năm sau.

Thời kỳ sinh trưởng chậm dần: Xảy ra vào sau giai đoạn cây dâu phát triển mạnh, cuối mùa thu đầu mùa đông, khoảng tháng 10-11. Giai đoạn này cây dự trữ dinh dưỡng trong thân cành và lá. Nếu số lá thu hoạch và số lá chừa lại trên cây vào vụ thu thích hợp thì các chất dinh dưỡng được tích lũy trên cây được tăng lên, tạo điều kiện cho cây dâu phát triển tốt vào năm sau. Điều kiện thích hợp: nhiệt độ 12 - 20 độ C, độ ẩm  đất  65 - 70%.

Thời kỳ nghỉ đông: Khi nhiệt độ không khí xuống thấp sinh trưởng giảm dần và ngừng hẳn, cây dâu chuyển sang giai đoạn nghỉ đông. Thời kỳ “nghỉ đông tương đối" của cây tính từ khi kết thúc rụng lá trong tháng 11- 12 đến khi bắt đầu nảy mầm ở tháng 2 mùa xuân năm sau. Điều kiện thích hợp: Nhiệt độ không khí < 12 độ C, độ ẩm.đất 60- 65%. Có thể làm muộn và rút ngắn thời gian nghỉ đông bằng cách bón phân hợp lý, xới xáo làm cỏ, tưới nước, đốn tỉa, đốn phớt vào tháng 10, phun vào cây các chất kích thích sinh trưởng như: etylen, gibberellin, clohydrin... nồng độ 0,005 - 0,01%.

Thời vụ trồng, mật độ và cơ cấu cây trồng ở các vùng

Thời vụ: Trồng bằng cây con gieo từ hạt: từ vụ xuân đến cuối vụ hè. Trồng dâu bằng hom:  Vùng đồng bằng Bắc bộ đến Duyên hải miền Trung - trồng tháng 11-12 đến tháng 1. Dâu tam bội có thể trồng  từ  tháng 2 đến tháng 10. Vùng cao nguyên Bảo Lộc -  trồng tháng 4, 5.

Mật độ:

Đất bãi: Ruộng dâu không trồng xen: 1,8 m * 0,4 m * 1 khóm /2-3 hom; mật độ: 1,4 khóm/m2 hoặc 1,2 m -1,5 m * 0,3 m - 0,5 m * 1 khóm/2-3 hom; mật độ: 1,3 - 2,8 khóm/m2. Ruộng dâu trồng xen các loại rau: 2,5 m * 0,4 m * 1 khóm/2-3 hom; mật độ: 1,0 khóm/m2. Trồng dâu rạch: 1 m * 1,1 m, hom dâu đặt nằm theo hình nanh  sấu.

Vùng đất đồi, cao nguyên, hoặc dâu trồng phân tán: 2,5 m * 0,4 m * 1 khóm/ 2-3 hom, mật độ 1 khóm/m2 hoặc 1,1 m - 1,2 m * 0,3 m * 1 khóm/2-3 hom, mật độ: 2,8 - 3 khóm/m2.

Đất trồng: Đất cát pha, đất thịt tơi xốp, tầng dày trên 1 m, mạch nước ngầm thấp ở độ sâu hơn 1 m. Cây dâu thích ứng pH 4,5 - 9, thích hợp nhất pH 6,5 - 7. Nồng độ muối trong đất < 0,2% không hại tới dâu, nồng độ muối > 1% dâu chết. Cần bón phân hữu cơ để đảm bảo hàm lượng CO2 trong ruộng 0,03 - 0,10% sẽ tăng cường độ quang hợp của cây dâu.

Cơ cấu cây trồng: Đất bãi trồng thuần, trồng xen các loại rau. Đất đồi trồng thuần, trồng xen các loại cây đậu đỗ hoặc phân xanh. Đất kiềm, nồng độ muối < 0,3% trồng thuần ở vùng biển, trồng xen từng băng trồng lúa trên đất sét mạch nước ngầm cao, trồng lúa 2 vụ và trồng dâu trên đất có hàm lượng muối quá cao.

  • Thu hoạch kén. Ảnh: NNVN.

    Thu hoạch kén. Ảnh: NNVN.

  • Bón phân NPK – S Lâm Thao cho cây dâu tằm

Lượng phân và cách bón

Phân chuồng, tấn /ha

Vôi bột, kg/ha

NPK-S 5.10.3-8

NPK-S 10.0.3-5

Lượng phân bón/năm

   a)Trồng mới, bón lót

20 - 25

500-600

1200-1500

 

   b) Bón phân hàng năm cho ruộng dâu  đã định hình nuôi tằm lấy kén ươm

20 - 25

500-600

1700-2300

2500-3500

Cách bón

    Bón vụ xuân, giai đoạn bắt đầu nảy mầm

     

500-700

    Bón vụ hè, giai đoạn sinh trưởng mạnh, sau khi cây có 4-5 lá thật

     

1500-2100

    Bón vụ thu, giai đoạn sinh trưởng chậm dần

     

500-700

   Bón vụ đông, giai đoạn nghỉ đông, khoảng tháng12

20 - 25

500-600

1700-2300

 

Các lần bón phân phải đảm bảo thời gian cách li trước khi hái lá 20 ngày trong vụ xuân, 15 ngày ở vụ hè và vụ thu.

Lượng phân bón thay đổi theo tuổi cây: ruộng trồng dâu năm thứ nhất thì bón bằng 50%, năm thứ 2 bằng 70% so với ruộng dâu đã định hình.

Bón phân qua lá: Phun qua mặt dưới lá 4-6 ngày/lần. Nồng độ phun các loại phân NPK-S 5.10.3-8 từ 0,4 - 0,5%. Khi vườn dâu còi cọc và trời khô hạn thì phun NPK-S 10.0.5-3 ở nồng độ 0,5-0,6%; khi vườn dâu rậm rạp, thời tiết âm u, mưa nhiều thì phun NPK-S 5.10.3-8 ở nồng độ 0,5 - 0,6%. Lượng phun 2.000 lít dung dịch/ha.

Theo thống kê mỗi năm các nước sản xuất tơ tằm trên toàn cầu cung ứng ra thị trường khoảng 80.000 tấn tơ trong khi nhu cầu tiêu thụ được dự đoán không dưới 100.000 tấn nên có thể nói cung không đủ cầu. Tuy nhiên diễn biến đó lại trái chiều ở Việt Nam. Từ thời kỳ huy hoàng 20-30 năm về trước diện tích trồng dâu nuôi tằm ngày càng giảm sút, hiện chỉ còn khoảng 10.500ha trong đó vùng Tây Nguyên chiếm đến 73%, tổng sản lượng kén năm 2018 đạt gần 8.300 tấn, năm 2019 xấp xỉ 9.200 tấn. Nghề truyền thống cả ngàn năm này vẫn bấp bênh bởi con giống trong nước sản xuất ra chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu chăn nuôi còn lại 90% phụ thuộc vào nhập tiểu ngạch từ Trung Quốc, chất lượng không được kiểm tra, dịch bệnh không được kiểm soát. Thị trường tơ thì khó cả ở phía xuất khẩu lẫn phía nội tiêu bởi sự cạnh tranh mạnh mẽ từ tơ chất lượng đến tơ giá rẻ của Trung Quốc.

Xem thêm
Thuốc diệt mầm cỏ ruộng lúa Bé Bụ 30SE sản xuất theo công nghệ mới

Thuốc diệt mầm cỏ ruộng lúa Bé Bụ 30SE là sản xuất theo công nghệ mới, diệt trừ được nhiều loại cỏ như đuôi phụng, lồng vực, cháo, chác, rau mác, rau mương... rất an toàn.

Bộ đôi Advance và Advance Pro: Định nghĩa mới về độ đạm chuẩn cho tôm

Advance và Advance Pro là bộ đôi thức ăn hàng ngày từ Grobest Việt Nam, giúp người nuôi đối phó với tình hình giá tôm giảm mạnh và chi phí nuôi tăng cao hiện nay.

Tập đoàn Hùng Nhơn có thêm thành viên thứ 16

Sau thương vụ mua bán và sáp nhập (M&A) với Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển công nghệ sinh học Visakan, Hùng Nhơn Group chính thức có thêm thành viên thứ 16.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm