
Tranh của Nguyễn Quang Thiều.
“Chẳng phải liu điu cũng giống nhà/ Rắn đầu biếng học ắt không tha/ Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ/ Nay thét mai gầm rát cổ cha/ Ráo mép chỉ quen lời lếu láo/ Lằn lưng cam chịu vệt năm ba/ Từ nay trâu, lỗ xin siêng học/ Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia”. Nguyên văn bài thơ được Lê Quý Đôn ứng tác năm 10 tuổi, đã rất quen thuộc với đời sống tinh thần người Việt, vì minh chứng cho tầm vóc một trong những nhà bác học lừng lẫy nhất lịch sử nước ta. Bài thơ tuân thủ nguyên tắc vần điệu đăng đối nghiêm ngặt của thể thơ Đường luật, nhưng mỗi câu đều nhắc đến hình tượng con rắn với những tên gọi khác nhau.
Trong truyện cổ dân gian hoặc những tuồng tích sân khấu, hình tượng con rắn luôn đi kèm với điềm dữ, như “rắn báo mộng” hay “rắn trả thù”. Tuy nhiên, hình tượng con rắn “chẳng phải liu điu” trong ca dao lại mềm mại và uyển chuyển hơn, khi là một kinh nghiệm “Rắn không chân, rắn bò khắp rú/ Gà không vú, gà nuôi mười con”, khi là một cảnh tinh “Lúc đi gặp rắn thì son/ Lúc về gặp rắn thì đòn đến lưng”, khi là một ân nghĩa “Đôi ta như rắn liu điu/ Nước chảy mặc nước ta dìu lấy nhau”.
Biểu tượng ngành y là con rắn cuốn quanh cây gậy, còn biểu tượng ngành dược là con rắn cuốn quanh chén thuốc, với ý niệm “dĩ độc trị độc” để tái sinh và phục hồi. Nếu so với con rồng, thì con rắn hơi kém giá trị kích thích trí tưởng tượng. Cho nên, viết về con rồng phong phú và đa dạng vượt trội viết về con rắn. Thỉnh thoảng, con rắn mới xuất hiện trong văn chương. Ví dụ, hai bài thơ đề cập đến hai người bán rắn ở Hà Nội, lại khai thác hai góc nhìn khác nhau.
Nhà thơ Ý Nhi trong bài thơ “Người bán rắn bên hồ Thiền Quang” đã viết: “Giống hệt những diễn viên tài năng/ Anh, cũng dăm ba chú rắn. diễn như là không diễn. trước ánh nhìn chăm chú của đám đông/ Khán giả của anh thay đổi luôn, và không bao giờ vắng/ Họ nhìn cái ác bị trói buộc, nhìn mối hiểm họa không còn khả năng xảy ra/ Với niềm kiêu hãnh ngây thơ, với chút lo âu vô cớ, với nỗi vui được lãng khuây bao cực nhọc hàng ngày/ Rắn hổ mang, rắn cạp nong, rắn ráo, ngọ nguậy trên nền xi măng/ Người bán rắn điềm nhiên, cầm giữ cái ác, cầm giữ hiểm họa/ Như cầm trong tay những sợi dây thừng”.
Còn nhà thơ Nguyễn Thụy Kha trong bài thơ “Người bán rắn ở Văn Miếu” đã viết: “Đây là lần thứ hai sau lần làm người lính/ Anh cầm trong tay một thứ dễ chết người/ Ngoe nguẩy năm con rắn, giữa vỉa hè phe phẩy như sôi/ Lặng im anh thương binh ngồi, như hồi nào phục kích/ Chỉ có khác súng thì bắn giặc, còn rắn thì để bán, thế thôi/ Sau lưng anh một quá khứ cao vời/ Bia tiến sĩ sừng sững trong bất tử/ Trước mắt anh biến động cuộc đời/ Không phải là trò chơi/ Anh có thể từng xông lên tự nguyện, nhưng làm gì để sống qua từng ngày/ Bên anh bao lính trẻ hôm nay/ Lại thanh thản lên đường như anh từng thanh thản/ Người ta thường vì nghĩa lớn, hình như dễ hơn những toan lo cỏn con/ Có gì giống nhau giữa khẩu súng và con rắn, trong tay anh cầm/ Nó đều giúp anh giữ mình nguyên vẹn/ Giữa bao nhiêu giằng xé mất còn”.
Hậu sinh của danh sĩ Lê Quý Đôn chẳng mấy ai viết về con rắn trực diện, nhưng “chẳng phải liu điu” cũng thành văn chương. Nhà thơ Lê Thánh Thư có bài thơ “Rượu rắn nhiều ngẫm nghĩ: “Sinh nhật/ em mời tôi ly rượu rắn/ như có phiến trăng vàng dưới đáy tan ra/ tôi nghiêng ly uống cạn/ Rượu rắn, em ngâm năm loài rắn độc, tinh chất nọc độc của loài bò sát, trầm mình lắng đọng trong ly, tôi bình tĩnh đón nhận như một điều nghĩa lý/ Riêng nỗi ác độc của con người/ chẳng bao giờ cho tôi chút ngọt lành, thanh thản, giữa buồn vui”.
Rõ ràng, điều quan tâm đầu tiên và nỗi sợ hãi của con người trước con rắn vẫn là nọc độc. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều giai đoạn khởi nghiệp có bài thơ “Trong quán rượu rắn” gây chú ý trên thi đàn: “Những con rắn được thủy táng trong rượu/ Linh hồn chúng bò qua miệng bình cuộn khoanh đáy chén/ Bò tiếp đi bò tiếp đi qua đôi môi bạc trắng/ Có một kẻ say gào lên những khúc bụi bờ…/ Bò nữa đi, bò nữa đi hỡi những linh hồn rắn/ Nọc độc từng tia phun chói trong bình/ Người không uống rượu mà uống từng ký ức/ Mạch máu căng lên những vệt rắn bò/ Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ/ Rừng mang mang gọi từng khúc thu vàng/ Rượu câm lặng chở những linh hồn rắn/ Có một kẻ say hát lên bằng nọc độc trong mình”.
Về sau, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều tiếp tục viết về rắn, khi xem người thổi kèn rắn như một trò ảo thuật “Vẫn tựa tường ngồi ngủ, hỡi người thổi kèn rắn, du khách đến rồi đi/ Bóng tối phủ lên người tấm vải đen, người vẫn không thức dậy/ Phải chăng chính nọc độc của kẻ trong cuộc đã tìm cách giải thoát cả hai/ Khỏi sự trống rỗng, dối lừa từng nhân danh những điều huyền diệu” và cả khi ngồi bên đứa con gái bé bỏng “Có bước chân vô hình đang đi quanh đống lửa/ Làm những làn tro ấm khẽ bay lên/ Xa hơn nữa một mùa thu thắm đỏ/ Con rắn nâu bò qua vườn trên lớp lá vàng cong”.
Bên cạnh thơ, Nguyễn Quang Thiều còn vẽ tranh và viết văn xuôi lấy cảm hứng từ con rắn. Tiêu biểu là truyện ngắn “Quả tim rắn”. Lồng ghép vào câu chuyện tình yêu đôi lứa, quả tim rắn trở thành niềm ám ảnh: “Bên ngoài sóng biển réo ầm ầm. Trong những chiều như thế, ông già và tôi ngồi lặng lẽ uống rượu. Trong ánh sáng của chiếc đèn chai, quả tim rắn vẫn nhoi nhóp đập. Nó đập như không bao giờ ngừng. Và tôi cũng chưa từng thấy nó ngừng đập. Vì thường đến cuối cuộc rượu, ông già rót một chén rượu nhỏ, bỏ quả tim vào đó và đưa cho tôi uống. Tôi đã uống rất nhiều quả tim rắn vào bụng, nhưng lần nào cũng vậy khi uống xong tôi lại hoang mang vô cùng. Những con rắn bơi trong mù khơi. Những quả tim bé bỏng đập trong đĩa. Và tiếng rên rỉ bất tận của biển cả”.
Truyện ngắn “Quả tim rắn” chỉ có ba nhân vật, ông già ngư dân, cô con gái tên Biển và nhân vật xưng “tôi”. Xoay quay họ và kết nối họ là quả tim rắn với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau: “Tối nào Biển cũng làm thịt một con rắn biển cho ông già uống rượu. Và lần nào cô cũng gỡ quả tim rắn bỏ vào lòng đĩa để trước mặt ông. Ông già có thói quen suốt mấy chục năm rồi là vừa uống rượu vừa nhìn những quả tim rắn đập trong lòng đĩa. Và chỉ khi ông cảm thấy quả tim đập những nhịp cuối cùng thì ông mới nuốt quả tim rắn vào bụng.
Một lần, ông đã không nuốt quả tim rắn ấy. Ông uống rượu và ngủ gục. Biển không dám đánh thức ông, cô chong đèn và ngồi nhìn quả tim rắn. Mệt quá, cô thiếp đi. Bỗng cô giật mình choàng dậy và cuống cuồng vặn to ngọn đèn để nhìn quả tim rắn. Trong lòng đĩa, quả tim rắn bé bỏng vẫn cứ đập đều đều. Từ lúc đó, cô không dám ngủ nữa. Cô sợ nếu cô chợp mắt, quả tim rắn sẽ ngừng đập. Cuối cùng, vì quá hoảng sợ quả tim sẽ ngừng đập ngay trước mặt cô, cô đã nhắm mắt nuốt quả tim rắn. Sáng sau tỉnh dậy, cô sờ tay lên ngực mình. Và cô không sao biết được tiếng đập trong lồng ngực cô là tiếng đập của trái tim cô hay là quả tim của con rắn biển?”.
Được viết từ hơn ba thập niên trước, truyện ngắn “Quả tim rắn” không có gì đặc biệt về văn phong và cấu trúc. Yếu tố duy nhất để công chúng vẫn nhớ đến tác phẩm này là quả tim rắn vẫn đập cồn cào những suy tư day dứt: “Ông già vẫn đang ngủ. Và kỳ lạ thay, trong lòng chiếc đĩa nhỏ, quả tim nhỏ vẫn đập đều đều. Nó đập như không thể nào đứng lại. Nó đập như một cuộc chiến đấu lớn lao nhất. Có thể, nếu nó không còn đập, tất cả đã khác rồi”.