Nông dân chủ động quyết định thời gian bán lúa
Một doanh nghiệp lớn, nhiều năm kinh nghiệm trong xuất khẩu gạo (xin giấu tên) cho rằng, năm nào vào vụ thu hoạch lúa, các ngành chức năng, địa phương và doanh nghiệp cũng họp bàn tìm giải pháp nhưng ngành lúa gạo vẫn đối mặt với nhiều khó khăn.
“Nông dân bán lúa tươi trên đồng dễ bị ép giá. Thương lái cũng bấp bênh, có khi phải bỏ cọc hoặc hủy hợp đồng để giảm lỗ. Chuỗi liên kết cũng chưa giải quyết triệt để vấn đề giá cả, vì khi chính vụ, áp lực tiêu thụ sản phẩm của 1,5 triệu hecta lúa là rất lớn. Ngay cả doanh nghiệp có kho chứa và nguồn vốn cũng không dám dự trữ quá nhiều do rủi ro thị trường và lãi suất cao”, đại diện doanh nghiệp phân tích.

Tình hình tiêu thụ lúa ở ĐBSCL thường gặp khó khăn khi vào chính vụ, nhất là vụ đông xuân. Ảnh: Kim Anh.
Cũng theo doanh nghiệp này, giải pháp lâu dài là làm sao giúp nông dân chủ động quyết định thời gian bán lúa. Tức bà con phải có vốn và kho chứa để dự trữ, tuy nhiên việc này rất khó thực hiện, nếu không có sự hỗ trợ phù hợp.
Liên quan đến vấn đề này, tại Hội nghị về tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo tại ĐBSCL do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy chủ trì, ông Trương Mạnh Linh - CEO Tập đoàn Tân Long cho biết, đơn vị có hệ thống kho chứa 300 nghìn tấn lúa. Trong đó, Nhà máy lúa gạo Hạnh Phúc ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang có khả năng chứa 120 nghìn tấn.
Hiện Tập đoàn Tân Long đang thực hiện thí điểm cho nông dân, HTX gửi lúa vào nhà máy để gia công và lưu trữ dài hạn (có tính phí). Mô hình này giúp bà con nông dân có thêm lựa chọn dự trữ lúa, minh bạch hóa quá trình thu mua và tiêu thụ.
Linh hoạt điều chỉnh mùa vụ
Liên quan đến giải pháp mùa vụ, Kiên Giang là địa phương có diện tích trồng lúa đứng đầu khu vực ĐBSCL, nên việc phát triển bền vững ngành hàng lúa gạo đóng vai trò quan trọng đối với tỉnh.
Ông Lê Hữu Toàn - Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Kiên Giang, đề xuất Bộ Nông nghiệp và Môi trường nên khuyến khích nông dân trồng lúa theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp để hạn chế rủi ro tiêu thụ.

Trồng lúa theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp để hạn chế rủi ro tiêu thụ là hiến kế của Sở Nông nghiệp và Môi trường Kiên Giang. Ảnh: Kim Anh.
Hiện Kiên Giang có 60.000 ha lúa sản xuất theo đơn đặt hàng của 21 doanh nghiệp, chủ lực là Tập đoàn Tân Long, Công ty Cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An, Tập đoàn Lộc Trời… Thời gian tới, nếu tỉnh mở rộng diện tích trong Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao lên 100.000 ha, khoảng 70% diện tích lúa của tỉnh sẽ chủ động được vấn đề liên kết.
Bên cạnh đó, để tránh tình trạng "đụng đồng", ùn ứ lúa, ông Toàn đưa ra giải pháp là các địa phương nên dịch chuyển mùa vụ sao cho phù hợp với điều kiện canh tác của người dân và khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp.
“Khoảng 2 năm trở lại đây, nông dân Kiên Giang đã dịch chuyển mùa vụ lên khoảng 15-20 ngày. Như vậy, nông dân và doanh nghiệp đều rất dễ thở”, lãnh đạo ngành nông nghiệp và môi trường Kiên Giang bày tỏ.
Đồng quan điểm, ông Lê Thanh Tùng - Phó Chủ tịch Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam nhấn mạnh, về lâu dài bà con nông dân phải giảm chi phí sản xuất, nhất là lúa giống và thuốc bảo vệ thực vật, để tăng lợi nhuận.

Ông Lê Thanh Tùng - Phó Chủ tịch Vietrisa đưa ra giải pháp điều chỉnh mùa vụ trong sản xuất lúa. Ảnh: Kim Anh.
Riêng vụ hè thu, các nước như Thái Lan, Campuchia, Lào xuống giống cùng thời điểm với Việt Nam và chịu ảnh hưởng của thời tiết, khiến chất lượng lúa không cao so với vụ đông xuân. Do đó, các địa phương ĐBSCL phải điều hành sản xuất tốt, thực hiện ngay chương trình canh tác giảm chi phí, để tránh tác động của hạn mặn và mưa đầu mùa, giúp nông dân bán được lúa sớm với giá tốt hơn.
Ngoài ra, cần duy trì cơ cấu giống lúa hiện tại, hạn chế sản xuất các giống phục vụ chế biến như IR50404, OM380 trong vụ hè thu.
Tính đến nay, ĐBSCL đã xuống giống khoảng 150 nghìn hecta trong tổng số 1,5 triệu hecta lúa hè thu (tương đương khoảng 10%).
Đẩy nhanh Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao
Ông Phạm Thái Bình - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An cho rằng, sản xuất chưa gắn với tiêu thụ là lý do khiến tình hình tiêu thụ lúa gạo “lặp đi lặp lại” khó khăn khi vào vụ thu hoạch lúa đông xuân.
Để không xảy ra tình trạng giá lúa lúc lên cao, có khi lại xuống thấp, ông Bình nhấn mạnh cần nhân rộng Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, không tổ chức thí điểm nữa.
Bởi khi nhân rộng đề án, sẽ có cơ sở pháp lý xây dựng chặt chẽ mối liên kết giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp. Nông dân không “bán đổ bán tháo” cho thương lái.
Tại An Giang, có khoảng 30 doanh nghiệp tham gia sản xuất lúa gạo, chiếm khoảng 16% diện tích sản xuất lúa toàn tỉnh. Để ngành hàng lúa gạo phát triển bền vững, ông Ngô Công Thức - Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang đề xuất Bộ Nông nghiệp và Môi trường tham mưu Chính phủ xây dựng thương hiệu lúa gạo giảm phát thải cho các diện tích thuộc Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, nhằm tăng tính cạnh tranh, thu hút doanh nghiệp liên kết.

Niềm vui của nông dân trên cánh đồng mùa gặt là lúa trúng mùa, trúng giá. Ảnh: Kim Anh.
Tương tự, ông Nguyễn Ngọc Hè - Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường đẩy nhanh tiến độ triển khai Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, vì đây là mô hình liên kết chặt chẽ giúp đảm bảo đầu ra ổn định.
Thực thi chính sách phát triển bền vững
Sau năm 1975, Việt Nam từ nước thiếu lương thực đã trở thành quốc gia xuất khẩu gạo nhờ chính sách phát triển hợp lý. Từ năm 1989 đến nay, tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam lên đến 158,5 triệu tấn, có mặt tại hơn 150 nước/vùng lãnh thổ và đứng thứ 3 thế giới về xuất khẩu gạo. Riêng năm 2023 và 2024 lượng gạo xuất khẩu vượt ngưỡng lần lượt 8 triệu tấn và 9 triệu tấn.
Tuy nhiên, trong bối cảnh biến động thị trường và biến đổi khí hậu đang tác động mạnh đến sản xuất và tiêu thụ gạo, PGS.TS Bùi Bá Bổng - Chủ tịch Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam (Vietrisa) cho rằng, giải pháp trước mắt và chiến lược dài hạn cho ngành hàng lúa gạo Việt Nam là phát triển toàn diện theo hướng minh bạch, trách nhiệm và bền vững, bao gồm từ cung ứng đầu vào, thực hành sản xuất nông nghiệp, chế biến và phân phối.
TS Cao Đức Phát - Chủ tịch Hội đồng quản trị Viện nghiên cứu Lúa quốc tế (IRRI) đề xuất một số giải pháp trọng tâm trong nâng cao kỹ thuật canh tác.
Thứ nhất, chọn tạo và phổ biến các giống lúa có năng suất, chất lượng cao, chống chịu tốt đối với các tác nhân như: hạn hán, ngập úng, mặn, sâu bệnh.

Áp dụng cơ giới hóa đồng bộ trong canh tác lúa là một trong những giải pháp bền vững, giúp nông dân tiết giảm chi phí. Ảnh: Kim Anh.
Thứ hai, phổ biến các gói kỹ thuật canh tác lúa bền vững. Như ở ĐBSCL hiện đang phổ biến kỹ thuật “1 phải, 5 giảm” rất thành công, cho phép giảm 30% vật tư đầu vào mà vẫn tăng năng suất 10-20%, tăng lợi nhuận 20-40%, giảm phát thải khí nhà kính 20-50%.
Thứ ba, áp dụng các phương tiện cơ giới hóa làm đất, gieo cấy, thu hoạch; phát triển thủy lợi, công nghệ chế biến; cung cấp tín dụng; thực thi chính sách thị trường cạnh tranh. Đặc biệt là thực thi chính sách giao quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cho nông dân.
Chỉ khi tất cả các bên cùng chung tay, bài toán phát triển bền vững của ngành hàng lúa gạo mới thực sự có lời giải. Tương lai của ngành không chỉ nằm ở năng suất mà còn ở giá trị gia tăng, sự minh bạch và tính bền vững.