
Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha (1949-2025).
Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha, với đám đông hâm mộ, quen thuộc nhất với vai trò bình luận âm nhạc trên các show truyền hình. Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha, với đồng nghiệp cầm bút, lại quen thuộc nhất với hình ảnh lãng tử rong chơi luôn rộn ràng giữa các cuộc vui. Từ bài thơ đầu tiên “Nắng Bến Giằng” in trên báo Quân Đội Nhân Dân ngày 13/5/1974 đến khi trút hơi thở cuối cùng, ông có nửa thế kỷ say đắm với thi ca.
Tài năng của Nguyễn Thụy Kha và cốt cách của Nguyễn Thụy Kha, đều hiển lộ qua thi ca. Vì vậy, đọc thơ Nguyễn Thụy Kha có thể mường tượng những ngày ông đã sống và có thể sẻ chia những niềm riêng ông gửi lại dương gian: “Ta đâu đa mang chỉ thèm khát sống/ Nên lắm đau lắm xót cũng mình ta/ Cũng mình ta chờ đợi tới sương mờ/ Thu như cũ, giá lạnh sao lại mới?”.
Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha sinh ngày 7/10/1949 tại Hải Phòng. Chốn chôn nhau cắt rốn nhiều ưu tư “Biển lớn lao sao vô vị thế này/ Không rửa sạch nổi kiếp người lấm láp” nhiều phen khiến ông choáng ngợp “Đồ Sơn đấm thẳng tôi một cú/ Mạnh và phóng túng Đường thi”.
Từng là một chiến sĩ binh chủng thông tin trong kháng chiến chống Mỹ, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha rời khỏi biên chế từ năm 1990 và hành nghề tự do để mưu sinh. Chính hoàn cảnh ấy, hình thành ở Nguyễn Thụy Kha khả năng vận dụng chữ nghĩa khéo léo và uyển chuyển. Sau những cuộc rượu xuyên trưa xuyên chiều thì nửa đêm Nguyễn Thụy Kha bật dậy chong đèn để viết bù lại thời gian bạn bè ngất ngưởng.
Dù yêu dù ghét ra sao, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha vẫn là một nhân vật có thương hiệu, có đẳng cấp. Mặc dù thẩm mỹ thiên bẩm ở Nguyễn Thụy Kha bị dàn trải và bị pha loãng, vẫn đều đặn cho ra tác phẩm trên mức trung bình. Có thể nêu những tác phẩm được ông gọi là “trường ca ngắn”, như “Lòng chảo” viết về Điện Biên Phủ, “Cực sóng” viết về tàu không số trên biển, “Biến tấu Souliko” viết về nữ liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, “Màu Quảng Trị” viết về bom đạn 81 ngày đêm bảo vệ thành cổ năm 1972, “Hà Nội tháng chạp nóng” viết về trận B52 ném xuống phố Khâm Thiên, “Gió Tây Nguyên” viết về giai đoạn mở màn giải phóng miền Nam, hoặc “Mùa xuân trắng” viết về chiến dịch chống lại bọn diệt chủng Pol Pot…
Dù yêu dù ghét ra sao, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha vẫn là một nhân vật có đóng góp cho đời sống văn hóa Việt Nam suốt mấy chục năm qua. Khi không làm dáng và quên trình diễn, thì Nguyễn Thụy Kha có được những câu thơ song hành số phận mình: “Giật cửa tận đền đài/ Chiến tranh/ Lôi con người ra ngoài yên tĩnh/ Một thế hệ chợt rùng mình thành lính…/ Một thế hệ hiến dâng trọn vẹn, hiến dâng vô danh/ Cắn chặt răng không khóc/ Cháy thành lửa, tắt thành vuông cỏ mọc/ Chín muộn như không thể chín tự nhiên”.
Và ông cũng có được những câu thơ đồng hành nhân quần lương thiện: “Cứ thế gió chà đi xát lại/ Trên Tây Nguyên chiều cao trần trụi/ Để tìm ra trung thực con người”.

Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha qua nét vẽ của họa sĩ Huỳnh Dũng Nhân.
Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha chịu khó tìm hiểu và trí nhớ siêu phàm. Trừ vài giây phút bốc đồng, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha giống như một Google khi muốn tham khảo dữ liệu về nhạc sĩ nào đó, ca khúc nào đó trong dòng chảy non một thế kỷ tân nhạc Việt Nam. Thậm chí, ông còn tường tận bối cảnh sáng tác của mỗi nhạc sĩ và chủ thể cảm hứng của từng ca khúc. Vì vậy, khi nhà thơ Nguyễn Thụy Kha đã vẫy tay giã biệt dương gian, công chúng bỗng xót xa trước một sự thật: Trong vòng một, hai thập niên nữa chưa chắc có Nguyễn Thụy Kha thứ hai, đủ tầm thêm hương thêm vị cho những câu chuyện hậu trường âm nhạc Việt Nam.
Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha đã có được những tháng ngày la đà phóng túng, theo đúng sở nguyện của ông: “Em mong manh như một cánh buồm/ Lướt qua mọi hiểm nguy bất chợt/ Sự dũng cảm đôi khi chính là sự yếu ớt/ Một nụ cười mềm lại mọi dữ dằn”. Bây giờ, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha không còn nữa, những người từng cùng ông đi qua vui buồn ngắn ngủi cõi tạm, càng thấy thương hơn những câu thơ "Không đề" được ông viết tháng 5/1977: “Đưa người yêu qua nhà người yêu cũ/ Rơi cơn mưa ban trưa/ Chợt thấy mình tách thành hai nửa/ Nửa ướt bây giờ, nửa ướt xa xưa”.