| Hotline: 0983.970.780

Phận sông không thể hững hờ

Thứ Năm 30/01/2025 , 09:20 (GMT+7)

Dọc theo thủy trình sông Hậu, mới biết dòng sông cũng có lúc vui lúc buồn, lúc lãng mạn nên thơ, lúc dữ dội cuồng nhiệt.

Minh họa của Huỳnh Dũng Nhân.

Minh họa của Huỳnh Dũng Nhân.

Trong bài hát “Trở về dòng sông tuổi thơ” của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, tôi thích nhất đoạn ông so sánh con sông với tâm tính cô gái trẻ lúc đang yêu “sông cũng như người ấy, có khi vui buồn, có khi hờn ghen, chỉ tình yêu tuổi thơ mới thấy”. Dọc theo thủy trình sông Hậu, mới biết dòng sông cũng có lúc vui lúc buồn, lúc lãng mạn nên thơ, lúc dữ dội cuồng nhiệt.

Khi vào lãnh thổ Việt Nam ở thị trấn Long Bình huyện An Phú (An Giang), sông Hậu chia thành hai dòng. Dòng chính chảy hướng đông - nam về phía chợ Khánh An, gọi là sông Bassac, hay sông Bát-Sắc, Ba-Thắc. Dòng phụ chảy theo hướng tây - nam, gọi là sông Bình Di, men theo biên giới giữa Việt Nam và Campuchia, ôm gần một nửa cù lao tả ngạn. Khi tới ngã ba Bắc Đai, sông Bình Di được người dân gọi là sông Phú Hội, rồi xuôi về đến vàm Vĩnh Hội Đông, nó lại có tên gọi khác là sông Châu Đốc. Những tưởng cuộc chia ly giữa hai nhánh sông chốn biên thùy sẽ không mong gì có ngày tái ngộ, ngờ đâu qua những gập ghềnh đục trong, chúng lại hợp lưu ở ngã ba Châu Đốc, tạo nên vùng “giáp nước” tấp nập xuồng ghe, trên bến dưới thuyền.

Từ Châu Đốc xuôi về tới hạ nguồn, thủy trình Hậu Giang ít biến động, chỉ thi thoảng tách dòng khi có những cồn đất lớn nổi lên rồi sau đó nhập dòng trở lại. Điển hình như khu vực cồn Phó Ba, cồn Mỹ Hòa Hưng (thuộc Long Xuyên), khu vực cồn Tân Lộc, cồn Sơn, cồn Ấu (thuộc Cần Thơ), cồn Phong Nẫm, cồn Mỹ Phước, Cù Lao Dung (thuộc Sóc Trăng).

Nhiều người cho rằng, cách đặt tên sông Tiền và sông Hậu là dựa vào vị trí địa lý. Cứ hình dung trong quá trình “mang gươm đi mở cõi”, ông cha ta từ miền Đồng Nai, Gia Định hướng về phía cực Nam sẽ bắt gặp hai con sông lớn cản bước trường chinh. Gặp trước, gọi là “sông Tiền”, gặp sau, gọi là “sông Hậu”. Nhưng từ “hậu” trong phương ngữ Nam bộ còn có một nghĩa khác, chỉ đức tính hiền lành, bao dung; nó gần nghĩa với từ “nhân hậu”. Dân quê tôi cũng gọi sông Hậu là sông Cái, vừa mến yêu vừa tôn thờ con sông như một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người.

Bởi vậy, khi con sông Hậu lần đầu cuồng nộ đạp nước cuốn phăng một đoạn quốc lộ ở khu vực xã Bình Mỹ, huyện Châu Phú, An Giang, cả xóm tôi rất đỗi hoang mang. Ba tôi cùng vài lão niên đến xem, thấy cái vực nước xoáy cuồn cuộn và một khoảng trống lớn do vụ lở đất để lại thì thất kinh hồn vía. Ba về thắp nhang lên bàn thờ gia tiên, rồi đem mấy cây nhang nữa ra bờ sông cắm xuống, khấn vái điều gì tôi không nghe rõ. Trong tâm thức những người đã gắn bó với dòng sông gần trọn đời như ba tôi, hiện tượng vừa diễn ra có gì đó không bình thường. Phải chăng thế lực siêu nhiên nổi giận, sẵn sàng giáng xuống những thảm họa khó lường, vụ lở đất này là một hồi chuông cảnh báo? Nhưng dù ba tôi có lo sợ, có thành tâm cúng bái cũng chẳng xoa dịu được dòng sông. Tin về hàng loạt vụ sạt lở liên tiếp khiến ba tôi choáng váng. Mấy cọng chân nhang ba cắm ở đầu vàm cũng bị nước cuốn mất không còn dấu vết gì.

Nhớ lại những lần ngược lên phía thượng nguồn, thế nào tôi cũng tranh thủ đến bến sông gần thị trấn Long Bình, ngồi ngắm con sông Hậu hiền hòa khởi nguồn trên đất Việt. Ngã ba sông chốn biên thùy thơ mộng như ánh nhìn thiếu nữ lúc đang yêu. Những lúc thả hồn với dòng nước trong xanh màu ngọc bích, phẳng lặng như mặt hồ thu, dù có giàu tưởng tượng đến mấy tôi cũng không nghĩ rằng có đoạn sông dùng dằng đáng sợ, sẵn sàng gieo tai ương đến dân lành.

Kỳ thực, dòng chảy của con sông có chỗ dịu êm, có khi bạo liệt, nhưng tập tính tự nhiên ấy đã tồn tại hàng ngàn năm, tạo ra sự cân bằng, ổn định suốt lưu vực. Chỉ khi con người tác động vào một cách thô bạo, dòng sông mới đổi khác, bất thường.

Tôi nói với ba, hiện tượng đất lở hai bên bờ sông không phải do thế lực siêu nhiên nào cả. Mọi thứ là do con người, con người quá tham lam mấy chục năm qua đã nạo vét một lượng cát khổng lồ dưới đáy sông. Khi đáy sông bị khoét sâu, để cân bằng dòng chảy, con sông sẽ tự tìm nguồn cát khác lấp vào. Sông sẽ xói vào hai bên bờ, sẽ bào mòn các bãi bồi để khỏa đầy những khoảng trống mà con người tạo ra. Bao căn nhà, vườn tược, hoa màu, cây trái, súc vật và cả con người đã bị dòng sông nuốt chửng. Những tiếng kêu gào, oán trách trút xuống dòng sông nhưng mấy ai biết được nguyên do gây ra thảm cảnh là lòng tham không đáy của một nhóm người.

Ba nghe tôi nói xong chỉ buông một tiếng thở dài. Sau làn khói thuốc mờ ảo, con sông như nhòa dần đi trong mắt ông. Ba nhìn chầm chậm về mộ má tôi, rồi sâu trong hốc mắt bò ra hai dòng nước trắng đục. Có lẽ ba nhớ má, và nhớ dòng sông dù nó vẫn đang chảy bên nhà.

Hồi nhỏ, nhiều lần tôi theo má bơi xuồng bán bông điên điển dọc theo sông Hậu. Khi ấy đường sá chưa thông thoáng nên dân xóm tôi chủ yếu đi lại bằng xuồng ghe. Có những quãng sông tấp nập chẳng khác nào khu chợ. Xuồng bán buôn, xuồng câu lưới đậu san sát nhau. Tiếng nói cười, lời thăm hỏi của những người quê ngập tràn trên sóng nước. Cũng có những quãng vắng, rất ít xuồng ghe đi lại, chỉ con sông một mình tình tự. Bơi xuồng qua mấy đoạn đó, gặp nước xuôi thế nào má tôi cũng thả dầm chầm chậm, rồi cất giọng hò dìu dặt: “Hò…ơ… Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi/ Buôn bán không lời… mà hò…ơ…/ Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê”. Tiếng hò của má đằm thắm mà sâu lắng, phảng phất chút u hoài cố xứ. Tôi đã nghe tiếng hò ấy không biết bao nhiêu lần nhưng vẫn thèm được nghe, mãi mãi.

Lúc chở từ bệnh viện về, đò đang chạy má bỗng nhoài người, gượng mở mắt nhìn qua lớp cửa kính của xe cấp cứu, bên ngoài là dòng sông Hậu phủ một màn mưa mỏng. Môi má mấp máy như muốn nói điều gì đó nhưng chẳng cất thành lời, chỉ có tiếng sóng và tiếng mưa nhòa lẫn vào nhau. Không biết má có nhớ hồi xưa má từng kể, ngày ngoại trở dạ, hàng xóm cũng đưa qua đoạn sông này để tới nhà bà mụ.

Má chào đời bên dòng sông hiền hòa, rồi gắn bó với dòng sông trọn kiếp người. Con cá con tôm của dòng sông Hậu đã nuôi má tôi lớn lên từng ngày, phù sa sông Hậu cho ruộng lúa tốt tươi để ba má gieo hạnh phúc giản dị trên mảnh đất ven sông, để anh em chúng tôi lần lượt chào đời trong no ấm. Ngày ra đi, má cũng muốn nằm cạnh dòng sông, cho tiếng sóng vỗ về ngàn thu yên giấc. Trên quê hương này có biết bao con người hòa phận đời mình với phận sông như má, những con người không bao giờ khiến dòng sông đau đớn bởi chính họ sẽ còn xót xa hơn.

Những khi lang thang ngược xuôi dòng sông Hậu, thỉnh thoảng tôi bắt gặp hình ảnh một người đàn bà nào đó chở con trên chiếc xuồng nhỏ. Tiếng dầm khoan nhặt khua trong nước. Bóng nón lá và áo bà ba lấp loáng trên mặt sông. Tôi muốn cất tiếng gọi má ơi nhưng cổ họng bỗng nghẹn lại, chỉ có tiếng dòng sông thổn thức, còn lòng tôi chơi vơi buồn. Cũng nhiều lúc, tôi buồn và tức giận khi chẳng gặp hình ảnh nào nên thơ trên thủy trình dài hàng trăm cây số, chỉ toàn thấy ghe hút cát như những con mối khổng lồ, đêm ngày gặm nhấm dòng sông không ngừng nghỉ. Rồi những ghe cào điện chạy ngang dọc trên sông, tận diệt từng sinh linh bé nhỏ. Tôi căm phẫn hét lên như dòng điện vừa chạy qua chính trái tim mình.

Mới năm ngoái, tôi quá giang ghe tới cồn Phó Ba, nơi được mệnh danh là xứ sở đánh bắt cá hô huyền thoại. Cái cồn đất rộng chưa tới ba chục héc-ta nằm chắn giữa sông Hậu đoạn chảy qua thành phố Long Xuyên, có hơn ba trăm hộ dân cư ngụ, nhà cửa san sát nhau. Biết tôi đến hỏi thăm về nghề cá, nhiều ông già bảy mươi mấy tám mươi tuổi chóng gậy lại một cái sân trống. Sau vài câu chuyện xôm tụ nhắc tới thời đánh bắt cá mấy chục năm trước, không khí bỗng chùng xuống khi ai nấy đều cảm thán: Bây giờ cá mắm hết rồi. Cá hô làm gì còn. Không bằng một phần trăm hồi đó.

Mấy cụ già ngơ ngác nhìn nhau rồi nhìn về vô định, tiếc nuối ngẩn ngơ một thời oanh liệt cùng sông nước. Bỗng có vài tiếng chửi vang lên. “Nó cào điện suốt ngày suốt đêm mà cá mắm nào còn.” “Không dẹp bọn ác nhơn đó thì không sống nổi ở xứ này nữa đâu.” Những người đàn ông trạc ba, bốn chục tuổi lúc này mới từ nhà đi ra, trút cơn bực dọc. Họ là con, là cháu của mấy ông già nãy giờ trò chuyện. Họ là thế hệ bắt đầu nếm trải cảnh sống chật vật vì cá tôm cạn kiệt, không thể làm nghề hạ bạc mưu sinh dễ dàng như thời cha ông mình. Họ kể về những cuộc chạm trán nảy lửa, những lần ẩu đả đến đổ máu giữa phe đánh bắt cá bằng xung điện và phe quyết tâm giữ cách đánh bắt truyền thống. Cuộc chiến vẫn chưa đến hồi kết, họ bảo vậy. Giữa dòng sông mẹ hiền hòa, những đứa con đang ngày ngày giày xéo nhau vì chén cơm manh áo.

Tôi bỗng nhớ tới biết bao người mà tôi đã gặp trên khắp miệt Cửu Long này. Số phận họ rồi sẽ ra sao giữa cuộc trầm luân? Dòng sông bao dung nhưng không còn có thể cưu mang những kiếp người trôi nổi. Nếu ba tôi còn sống, chắc cũng không đếm nổi tiếng thở dài.

Trong những lần xuôi ngược miệt Cửu Long, tôi luôn mang theo hồi ức về điệu hò khắc khoải của má tôi cùng tiếng thở dài trầm đục của ba tôi. Tôi ý thức hình hài này do ba má tạo ra và sông đã rộng lượng cưu mang chúng tôi biết bao năm tháng. Bởi vậy, tôi thấy đau đớn xót xa khi nhìn những dòng sông từng ngày hấp hối.

Càng về phía hạ nguồn, các nhánh sông Hậu sông Tiền hầu như đều trôi rất chậm. Tôi từng nghĩ, lúc này sông không còn cái hăm hở vụng dại như thuở thiếu thời mà bắt đầu mang dáng vẻ điềm nhiên, tĩnh lặng của nhà minh triết. Cũng có thể, dòng nước kia đã quá mỏi mệt sau hành trình dài hàng ngàn cây số, từ các đỉnh núi tuyết vĩnh cửu nơi cao nguyên Thanh Tạng xuôi tới miệt này.

Những lần ngang qua khúc sông sát cửa biển, tôi miên man nhìn dòng nước trắng đục nhởn nhơ trôi như biết mình sắp hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng. Ôi từng hạt nước kia phải chăng đã vượt qua muôn vạn thác ghềnh, qua những đập thủy điện như bao nhát dao chém xuống dòng sông, qua những rác rưởi thị phi, hóa chất ngập ngụa, qua những xung điện, những chiếc vòi hút cát khổng lồ, qua lọp, lờ, đăng, đó, chà gào, câu lưới. Và qua những phận người chấp chới khắp triền sông.

Tôi từng bần thần rất lâu khi đọc được số liệu thống kê trong mười năm qua có đến hơn một triệu dân Đồng bằng sông Cửu Long rời bỏ quê hương, xiêu tán khắp nơi. Số dân đó tương đương với dân số một tỉnh, trong mười ba tỉnh thành ở khu vực này. Trong những người đã bị bứng khỏi miền Tây ấy, có anh chị tôi, em út tôi, con cháu tôi. Những gia đình nhỏ bồng bế, dắt díu rời nơi chôn nhau cắt rốn để tới những phương trời vô định, chẳng thể biết tương lai sẽ ra sao.

Họ vẫn đi, hết tốp này đến tốp khác, bởi quê nhà không còn kế sinh nhai, những con sông nuôi nấng họ bao đời giờ đây không còn cưu mang họ nổi. Hàng ngàn đứa trẻ miền Tây ngơ ngác theo cha mẹ lên các khu công nghiệp, đối mặt với cảnh thất học và nhiều hệ lụy khác. Kết cấu văn hóa xã hội vùng đồng bằng bị đảo lộn do di dân. Những xóm làng giờ chỉ còn người già và trẻ con bám trụ là điều không hiếm gặp. Tương lai miền Tây rồi sẽ ra sao? Đó là câu hỏi đau đáu ám ảnh tôi một thời gian dài.

Trong mắt khách phương xa, miền Tây luôn là vùng đất chân chất nghĩa tình, miền Tây hào sảng chịu chơi, miền Tây cây trái sum suê ruộng đồng cò bay thẳng cánh, miền Tây trên lúa dưới cá, xuồng ba lá, áo bà ba ngân nga câu vọng cổ. Mấy ai biết được, xứ này đang đối mặt với những thử thách sống còn? Nếu chúng ta không hành động quyết liệt để các quốc gia thượng nguồn bớt tác động vào dòng Mekong, thì tương lai gần thôi, miền Tây sẽ hoàn toàn kiệt quệ.

Cũng cần nói thêm, chính người dân nơi đây có thể tự cứu lấy mình, bằng cách thay đổi thói quen sản xuất thâm canh tăng vụ, biết quý trọng nguồn nước và những sản vật mà thiên nhiên ban tặng chớ không phải vơ vét vô tội vạ như mấy chục năm qua. Thông điệp chín nhánh Cửu Long giáng xuống mấy năm qua đã quá đủ để cảnh tỉnh những túi tham không đáy của con người. Nếu cứ tiếp diễn, một ngày nào đó dòng sông sẽ cho chúng ta những đòn chí mạng.

Tôi không nhớ mình đã ruổi rong bao nhiêu bận trên khắp miệt Cửu Long, sau mỗi chuyến đi, hành trang càng thêm trĩu nặng ưu tư. Nhưng cũng có khi, cái đẹp của dòng sông, cái đẹp của con người thắp lên trong tôi bao niềm kỳ vọng. Giống hôm đi ngang phà Thuận Giang, đoạn sông Tiền rẽ nhánh vào sông Vàm Nao, tôi gặp ông lão đang chở nào là bắp cải, đu đủ, chuối chín, rồi cốm, bánh ống... Hỏi ông đem mấy thứ này đi đâu, chắc không phải bán vì đa số đã hư héo. Ông cười hiền khô, nói tui đem về cho đàn cá của tui ăn đó chú em ơi. Không, tui không có nuôi cá trong hầm, cũng không nuôi trong bè gì hết. Ở bến sông nhà tui mấy năm trước tự nhiên có đàn cá tới “ở đậu”, thấy vậy tui đem cơm nguội rải cho tụi nó ăn. Rồi tụi cá quyến luyến không chịu đi, tui cũng thương nó nên ngày cho ăn ba cữ. Từ một đàn nhỏ chỉ vài chục con, giờ ước tính mấy chục tấn rồi. Tụi nó nhiều quá nên tui phải chạy xe đi kiếm đồ ăn. Ai bán thì mua, ai cho thì tui nhận, chung tay “cưu mang” đàn cá. Được, chú cứ tới đó coi, có gì đâu.

Phà cập bến, tôi chạy theo ông lão, rẽ vào chỗ đầu vàm thuộc xã Kiến An, huyện Chợ Mới. Căn nhà ông xập xệ, chất đầy mấy bao thức ăn cho cá, mớ đồ ăn mới chở về cũng đem vô chất chung. Ông không vợ con, không người thân thích, bảy chục tuổi đời vẫn tự làm lụng nuôi thân và nuôi đàn cá. Cứ tới xóm này hỏi ông Út Vàm Nao thì ai cũng biết. Ông vừa nói vừa cười, rồi lấy dao ra thái bắp cải, dưa leo, đu đủ quăng xuống bến. Lập tức, hàng ngàn con cá, có lớn có nhỏ, có cá trắng có cá đen, tràn lên kín mặt nước. Tôi cũng hào hứng cùng ông cho cá ăn, để sống với ký ức miền Tây một thời đầy cá tôm. Ông nói xứ này cũng có người làm nghề hạ bạc, nhưng biết ông dưỡng nuôi bầy cá như thế, họ không đánh bắt gần. Cứ thế, chúng sinh sôi nảy nở, ngày một nhiều hơn.

Ông Út không mong gì cả, chỉ cầu nguyện được khỏe mạnh để nuôi đàn cá. Nhiều đêm nghĩ, nếu chẳng may trái gió trở trời khiến mình theo ông theo bà, không biết đàn cá này rồi sẽ ra sao, tui trằn trọc không ngủ được, bèn xuống bến cho tụi nó ăn. Hình như nhiều con hiểu nỗi lòng tui, nó trườn lên rỉa rỉa bàn tay, cho tui vuốt ve nó mới chịu lội đi. Ngồi với ông Út cả buổi, tôi thấy lòng mình thật bình yên. Thỉnh thoảng có vài người ở xóm hoặc từ xa tới, ghé xin phép cho đàn cá ăn, rồi gởi lại cho ông một ít tiền, một ít thức ăn cùng nuôi đàn cá. Họ rời đi khi trong mắt ai cũng tràn ngập niềm hạnh phúc.

Tôi lặng ngắm khúc sông đầu vàm, đẹp như tấm lòng ông lão. Chợt nhớ tới mấy “bến cá” tương tự, như ở xã Đốc Binh Kiều, huyện Tháp Mười hay tại xã Phú Đức, huyện Tam Nông (Đồng Tháp); rồi trên kinh Thần Nông thuộc xã Phú Thành, huyện Phú Tân (An Giang); hay ở cù lao Tân Lộc thuộc quận Thốt Nốt (Cần Thơ)… Tất cả đều là cá tự nhiên, thấy “bến lành” thì ghé vào, rồi được bà con “cưu mang” năm này qua năm khác. Những bến cá cho thấy vẻ đẹp từ tâm của lưu dân miệt này, dù cuộc sống họ vẫn nghèo khó, bấp bênh. Những bến cá cũng làm lóe lên chút tín hiệu khả quan về vùng sông nước Cửu Long.

Sức sống thiên nhiên vẫn luôn căng tràn, khi con người nhân hậu và biết trân trọng nó.

Xem thêm
Manchester United thắng nhọc ở Europa League

Manchester United (MU) phải rất nhọc nhằn mới hạ được đội bóng Scotland Rangers ở vòng áp chót giai đoạn vòng phân hạng Europa League vào rạng sáng 24/1.

Tay vợt Lê Đức Phát sớm dừng bước tại giải  cầu lông Thailand Masters 2025

Tay vợt cầu lông Lê Đức Phát đã sớm dừng bước tại giải Thailand Masters 2025 khi thua ở vòng 1 vào ngày 29/1 (mùng 1 Tết).

Người dân Cần Thơ mãn nhãn màn đua thuyền buồm trên sông Hậu

Ngày 29/12, lần đầu tiên TP Cần Thơ tổ chức giải đua thuyền buồm, một hoạt động mới lạ trong chuỗi hoạt động chào mừng Ngày hội Du lịch - Đêm hoa đăng Ninh Kiều.

Bình luận mới nhất