Thứ nhất là cây đào thất thốn, mẹ chẳng biết nó ở vào cái “thế” gì. Các cụ hái lá từ một tháng trước, làm sao để hoa nở đúng Tết. Về mua xuân, khoảng mồng một thì hoa hàm tiếu, đến rằm tháng giêng cây rộ hoa, nhìn cây đào như cái “bu gà” lộn ngược, chi chít hoa, từ gốc đến ngọn, chỉ thấy những hoa là hoa… Những ngày này vui lắm, từ hôm hoa hàm tiếu ngày nào cũng có khách, chú nhỏ tiểu đồng mỏi tay quạt hỏa lò, nhiều khi bố tôi hoặc các chú phải quạt giúp. Lửa phần phật reo, hoa lửa theo tay quạt bay lên vui mắt lắm.
Rồi… các cụ đọc thơ, bình thơ. Bài thơ được đọc lên hay nhất là bài thơ trên bức hoành phi nhà tôi. “Ba tiêu tâm tận triển tân chi/ Tân quyển tân tâm ám kỷ tùy/ Nguyện học tân tâm dưỡng tân đức/ Tiệp tùy tân diệp khởi tân tri” (Cây chuối sâu trong lòng nó mọc một cái lá/. Nhìn cái lá như quyển sách ám ảnh ta mãi/ Nguyện học giỏi và dưỡng tâm đức/ Kịp theo cái lá mà khởi tri thức mới). Bài thơ không có tác giả, nhìn trong lạc khoản chỉ thấy ghi “Long phi kỷ tỵ”. Tôi đoán: Khi nhà Nguyễn đổi kinh đô vào Phú Xuân - Huế, Kinh đô Thăng Long được gọi với cái tên nôm na: Hà Nội (trong sông), kẻ sỹ Bắc Hà giai đoạn đầu không chịu, gọi trại kinh đô Thăng Long thành “Long Phi”, vẫn là rồng bay lên, vừa ẩn ý, vừa nói lên được cái chí của mình. Ngẫm nghĩ thấy hay! Tìm mãi bài thơ trong Đường thi không thấy, chẳng biết tác giả là ai, nếu là một người Việt Nam hay biết mấy…
Những ngày xuân qua đi, công việc nhà nông hai vụ bốn mùa lại tiếp tục như mọi năm thường vẫn thế, chỉ còn lại ông tôi với cây đào. Suốt ngày ông chăm bón tỉa tót, bắt sâu nhổ cỏ… Cho đến tháng sáu, trên các cành đào ông tôi để lại 7 quả. Quả nảo quả nấy bằng nhau chằn chặn, đúng bắng cái “chén tống” (chén tống là để chuyên nước trà ra cái chén quân trước khi mời nhau uống), khi những quả đào ưng ửng chín thì nhìn rõ từng quả, trước đây những quả đào lẫn với màu lá. Chỉ độ hai chục ngày thì đào chín hẳn, ông tôi nhẹ nhàng hái xuống, một quả mang thắp hương nhà thờ họ, một quả cho ông con rể, còn lại 5 quả chia cho năm nhánh. Chẳng là cụ tôi có 5 người còn trai… Mẹ tôi là dâu trưởng được một miếng, nhỏ như miếng cau “bổ năm”. Mẹ để mãi trong lòng tay, hương đào chín thơm nức, mãi rồi mới ăn. Miếng đào nhỏ nhưng ăn ròn tan trong miệng, vị ngọt mát nhẹ nhàng thấm sâu vào tâm can.
Ông tôi mất, không ai chăm bón cho cây đào. Ông tôi mất năm trước năm sau cây đào cũng chết. Người ta bảo: Cây chết theo người thế là linh lắm! Chẳng biết có phải như thế không song gia đình tôi lâm vào giai đoạn bi thương. Bố tôi đi kháng chiến, mẹ tôi bỏ lại ruộng đất không “phát canh thu tô”, ai muốn làm thế nào thì làm, mẹ tôi theo bố ra “tự do”. Ở nhà, chú hai tôi lấy vợ, có gia sản riêng. Chú không làm ruộng nhưng thím tiếc của “phát canh thu tô”, thế là “hòa bình lập lại” thành “người bóc lột”, chú hai tôi bị “địa chủ” mất sạch cả gia sản… Chú ba tôi dính mấy tháng lính “tổng động viên”, thế là nhà có ba anh em, mỗi người một phe, chẳng ai dám nói với ai…
Các cụ nhà tôi để lại, ngoài cây đào là cây trà phấn hồng. Hai cây này trồng hai bên, ở giữa là cái núi đá. Cây đào chết, còn lại cây trà. Giống trà phần hồng nở vào tháng giêng sau Tết Nguyên đán. Còn trà bạch nở trước Tết, trà đỏ nở đúng Tết. Cái núi đá được “trồng” trong một cái bể hình cái khánh trên mặt đất. Thành bể uốn lượn mềm mại, núi đá là một ngọn “ngũ nhạc” (ngày trước gọi bố đẻ ra mình là Thái Sơn, gọi bố vợ là Nhạc Phụ. Nhạc ở đây là “ngọn”. Ngũ nhạc là 5 ngọn, ý là 5 người con, sinh ra 5 nhánh…). Núi cao khoảng hai mét, đặc biệt là không có một tí xi măng nào, sắt hoàn toàn không có, thế mà đá được gắn kết với nhau bền vững. Trải năm tháng thời gian, núi cứ sừng sững đứng, có cây si mọc lên, chắng biết từ đời nào mà luồn lách trong đá làm núi càng thêm bền vững.
Cây đào không còn, cây trà phần hồng cứ tháng giêng là chúm chím như môi người thiếu nữ. Cây trà mặc tất cả, đúng hẹn là nở. Nhìn hoa mà nhớ đến câu: Đông phong hà thời chí (bao giờ gió đông thổi đến đây)… Thế rồi số phận cây trà và cái núi đá cũng không hơn gì cây đào, chú tôi bi phẫn đã cầm cái cuốc chim. Chú tôi đánh đổ núi, chặt bỏ cây trà. Cây trà ngày thường tôi vẫn trèo lên nghịch ngợm. Đá bày bừa bộn trên mặt đất mấy ngày trời không có người dọn.
Biết tin chú tôi phá cái núi, ông cựu Đào ở xóm Trung Hậu vào xin đá. Ông cựu Đào có hai người con, một gái, một trai đặt tên là Bưởi và Hồng. Ông cựu Đào bị địa chủ, đất nhà ông bần cố nông đến ở làm thành xóm Trung Hậu. Ông bị đuổi ra một mảnh đất nhỏ, với ông không quan trọng gì, ông vốn là người theo đạo Phật, dân làng bảo: Ông đến con ruồi cũng không dám giết thì nên nỗi gì! Ông ra đầu xóm, dọn sạch mảnh đất nơi gốc bàng làm thành cái quán cắt tóc. Ông và chú Hồng ra hành nghề, lúc nhỏ cứ khoảng hai tuần bố tôi cho hào bạc, ra quán ông cựu Đào cắt tóc. Tôi thích được chú Hồng cắt, chú Hồng cắt đẹp hơn ông cựu Đào. Ông cựu Đào già rồi cắt tóc hay dứt đau nên không thích. Đặc biệt là cạo râu, ông có mảnh da căng trên thanh gỗ, ông liếc con dao rất kỹ trên đó rồi mới cạo. Ông Hồng cạo râu cho bác tôi, hai lần đứt tai, lần thứ ba cũng vậy, bác tôi vừa cười vừa nói: Ông chẳng cắt luôn tai tôi đi!
Ông cựu Đào và chú Hồng hay nói chuyện với mọi người về sách, tôi chưa đi học nhưng hay lắng nghe, sau này tôi biết, một trong những sách đó là cuốn "Đông Chu liệt quốc"... Bà cựu Đào thì khác hẳn, hình như cam chịu với số phận, bà nhẫn nại với gánh hàng từ làng tôi ra thị xã Sơn Tây, quãng đường dài gần 5km, hàng của bà chỉ có chuối, nhà ông buồn cười, đến hàng buôn bán cũng là hao quả! Ông cựu Đào mượn quang của bà lúc không đi chợ, ông và chú Hồng khiêng hết số đá núi về nhà, chẳng biết nhà quá nhỏ hay vì một lý do gì mà cái núi không được chắp lại… Chuyên về cái núi đá vì thế cũng quên đi! Sân nhà tôi đã được lát phẳng, song với tôi chỗ cây đào, cây trà và cái núi đã vẫn còn nguyên hình hài, chỗ ấy là cái “sẹo đất” chẳng lúc nào làm tôi nguôi ngoai…
Tôi lớn lên đi học, chẳng biết ông cựu Đào và chú Hồng cắt tóc đến năm nào thì về Sơn Tây. Ông cựu Đào theo con về Sơn Tây rồi mất ở đó. Cái quán cắt tóc bị mưa gió thời gian đánh tơi bời…
Mấy chục năm sau, trong một lần tình cờ tôi qua nhà chú Hồng. Lúc này chú Hồng đã về thị xã Sơn Tây sinh sống, gia đình có vẻ phong lưu, ông cựu Đào đã chết. Tôi lên tầng hai căn nhà chú Hồng, tôi thấy bàn thờ ông cựu Đào bày mà giật mình. Bàn thờ thờ ông Bồ Đề Đạt ma, vị tổ thứ sáu của thiền phái Trúc Lâm, ông này râu tóc vểnh ngược, hai mắt sáng quắc… Vị này là Tổ sư sau này của Thiền phái Trúc Lâm, Trúc Lâm Yên Tử, một Thiền phái của riêng Việt Nam. Dưới gầm bàn thờ nguyên đá núi của nhà tôi được chở từ Đường Lâm về. Bẵng đi vài tháng, tôi có ngỏ lời xin lại chú Hồng số đá núi của nhà tôi. Chú Hồng ngần ngừ, một thời gian sau chú bảo: Thôi chuyện của các cụ, hãy để mặc thời gian…
Tôi về nhà xây bể, không làm sao xây được bể hình cái khánh. Đành phải xây hình chữ nhật, bờ bể lát đá ong vát các cạnh. Vùng tôi đá ong xây tường là chuyện thường tình, tôi xây bờ bể bằng đá ong cho hợp với truyền thống của các cụ. Bể đã xây hơn mười năm mà chưa làm được núi. Cân nhắc mãi, làm quả núi ngũ nhạc khó quá, chọn mãi đá, mãi thợ mà chưa làm được… Cho đến năm nay, kinh tế trong nhà cũng đã tạm ổn, đã bớt lo lắng về miếng ăn, đã đến lúc chắp hòn núi cho giống các cụ ngày xưa. Nhà của các cụ trả lại cho các cụ, cho cảnh phong lưu lại tái hiện ở ngôi nhà này!
Không làm được núi “ngũ nhạc” đành phải làm núi “tam sơn”. Đá đã mua, thợ chắp núi đã gọi, ngày giờ đã ấn định. Hôm làm núi phấn khởi lắm, sau khi thắp hương “động thổ” là thợ bắt tay vào làm. Thời tiết ủng hộ, khô ráo… Khoảng độ mươi ngày thì xong, có mươi ngày mà phải chờ đợi hơn mười năm. Thôi, đành vậy, thời gian đến lúc này là thích hợp. Núi đứng sừng sững, nhìn núi cứ ám ảnh mãi… Đêm đã khuya tôi không làm sao mà chợp mắt được, số tiền bỏ ra làm núi không nhiều nhưng phải chờ đợi mấy mươi năm! Tôi sẽ gây lại cây trà, trà đỏ hay trà phấn hồng đều được. Đào thì có rồi dù không phải đào thất thốn… Tôi mở cửa ra ngoài sân, mới khoảng nửa đêm nghiêng về sáng mà sao trời chi chít, những vì sao lung linh như khảm vào bầu trời thăm thẳm. Tôi nhìn đá núi, đêm không sương mà đá nhoang nhoáng ướt. Tôi chợt giật mình: Đá khóc! Đá linh!