Net Zero - Đích xa sắp đến gần: [Bài 5] Ưu tiên tạo tín chỉ carbon, quản lý rừng bền vững

Bảo Thắng - Thứ Hai, 25/11/2024 , 06:00 (GMT+7)

Muốn thích ứng một cách nhanh chóng, bền vững với những quy định mới như CBAM, EUDR…, chủ rừng buộc phải chuẩn hóa ngay từ khâu giống và trồng cây xuống đất.

GS.TS Võ Đại Hải: 'Từ khi trồng cây xuống đất, chủ rừng đã biết mình sẽ có bao nhiêu tín chỉ carbon'. Ảnh: Bảo Thắng.

Nguồn tài chính bổ sung cho bảo vệ và phát triển rừng

Các lợi ích carbon trong lĩnh vực lâm nghiệp đang dần được cụ thể hóa bằng quy định pháp lý thông qua nhiều chương trình, sáng kiến về chi trả cho nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính từ mất rừng và suy thoái rừng; tăng cường hấp thụ carbon thông qua trồng rừng và phục hồi rừng.

Bộ NN-PTNT đã và đang triển khai 3 chương trình chi trả dựa vào kết quả trong giảm phát thải và tăng hấp thụ carbon trong lĩnh vực lâm nghiệp, đó là: (i) Chương trình Giảm phát thải ở vùng Bắc Trung bộ (ERP). Chương trình này đã chuyển nhượng 10,3 triệu tấn CO2; (ii) Chương trình LEAF dự kiến chuyển nhượng 6 triệu tấn CO2 từ giảm phát thải vùng Duyên Hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên; (iii) Tham gia Chương trình thí điểm chi trả cho kết quả thực hiện REDD+ giai đoạn 2014 - 2018 của Quỹ khí hậu xanh (GCF). JICA đã hỗ trợ kỹ thuật xây dựng đề xuất chi tiết và dự kiến trình đề xuất trong năm 2025.

TS Vũ Tấn Phương, Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững (VFCO) cho rằng, với cam kết về giảm phát thải để đạt được mục tiêu khí hậu theo Thỏa thuận Paris, các quốc gia sẽ đẩy mạnh hơn nữa việc triển khai các biện pháp giảm nhẹ phát thải.

Trên phương diện toàn cầu, thị trường carbon đang phát triển mạnh mẽ và đa dạng, đặc biệt là thị trường carbon bắt buộc. Việt Nam đang trong lộ trình xây dựng thị trường carbon trong nước - một trong những công cụ quan trọng để thúc đẩy thương mại, trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon giữa các doanh nghiệp trong nước. Thêm vào đó, nguồn đầu tư vào Việt Nam đang chuyển sang các nguồn tài chính xanh, nghĩa là chú trọng đến đầu tư cho tăng trưởng xanh, phát triển carbon thấp.

Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang đối mặt với một số thách thức và rào cản trong thực hiện mục tiêu giảm phát thải, đó là thiếu các quy định chi tiết về quyền carbon, quyền tài sản carbon, các cơ chế chia sẻ lợi ích, khuyến khích đầu tư, năng lực đo đạc, báo cáo, thẩm định các dự án, chương trình giảm phát thải, thương mại carbon, đặc biệt ở cấp độ địa phương và chủ rừng.

Để tận dụng cơ hội về tạo nguồn tài chính từ các lợi ích carbon trong lâm nghiệp, đồng thời đóng góp cho mục tiêu giảm phát thải của quốc gia, ông Phương khuyến nghị: "Các chiến lược, kế hoạch phát triển lâm nghiệp ở tất cả các cấp cần gắn với mục tiêu tạo tín chỉ carbon rừng và quản lý rừng bền vững; đảm bảo năng lực kỹ thuật, công khai và minh bạch thông tin, dữ liệu phục vụ việc đo đạc, báo cáo và thẩm định, đồng thời đa dạng và nâng cao hiệu quả đầu tư hơn nữa trong các chương trình bảo vệ, phát triển rừng”.

TS Vũ Tấn Phương: 'Ưu tiên tạo tín chỉ carbon và quản lý rừng bền vững trong mọi chương trình, kế hoạch của lĩnh vực lâm nghiệp'. Ảnh: Bảo Thắng.

Nhận thức được vấn đề này, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Lâm nghiệp (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam) đã phối hợp Chi cục Kiểm lâm tỉnh Yên Bái nghiên cứu thí điểm mô hình chuẩn bị sẵn sàng kinh doanh carbon từ rừng trồng tại huyện Yên Bình (dự án FCBMO) được thí điểm dựa trên hệ thống mã số vùng trồng rừng đã được thiết lập. Thông qua ứng dụng công nghệ số của Hệ thống iTwood, cơ sở dữ liệu vùng rừng trồng nguyên liệu có mã số sẽ được đặt tại 4 xã với quy mô 5.000ha.

Dự án FCBMO đặt ra các mục tiêu quan trọng, đó là tổ chức và phát triển chuỗi cung gỗ hợp pháp và truy xuất nguồn gốc trên 5.000ha rừng trồng. Cùng với đó là phát triển phương pháp đo đếm, báo cáo và thẩm định (MRV) được thiết kế ứng dụng trên hệ thống iTwood, nhằm xác định khả năng hấp thụ, lưu trữ carbon rừng trồng.

Kết quả nghiên cứu từ những dữ liệu thực tế này, dự án FCBMO sẽ tiếp tục tính toán mức carbon tham chiếu; Xây dựng tiêu chí, chỉ số giám sát và quản lý tài sản carbon rừng của hộ gia đình, cũng như kết quả giảm phát thải; xây dựng cơ chế chi trả dịch vụ carbon từ rừng trồng. Trên cơ sở đó, sẽ định lượng được khả năng giảm phát thải được chứng nhận, làm cơ sở xác định tín chỉ carbon trên quy mô dự án và có thể giao dịch khi thị trường carbon được hình thành.

Lợi ích lâu dài, bền vững

Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Lâm nghiệp Hoàng Liên Sơn chia sẻ, có 5 hoạt động chính trong thời gian 2 năm thí điểm của dự án FCBMO. Bước đầu, là ứng dụng công nghệ số của hệ thống iTwood phát triển chuỗi cung gỗ hợp pháp và truy xuất nguồn gốc thích ứng EUDR để thiết lập mô hình thí điểm trên quy mô 5.000ha rừng được cấp mã. Trong thời gian này, Trung tâm sẽ hoàn thiện các bộ tài liệu tập huấn và tổ chức các lớp đào tạo sử dụng phần mềm iTwood cho chủ rừng, thành viên Hội nông dân.

Kế đó là phát triển phương pháp đo đếm, báo cáo và thẩm định (MRV) ứng dụng hệ thống iTwood để xác định khả năng hấp thụ, lưu trữ carbon rừng trồng.

“Song song với tính lượng hấp thụ carbon, chúng tôi sẽ phối hợp cung cấp các đánh giá độc lập, viễn thám, đồng thời giám sát theo tiêu chuẩn thị trường carbon. Tiến tới khi hoàn thành dự án, lượng giảm phát carbon sẽ được chứng nhận và chuyển hóa thành tín chỉ khi có thị trường, với các tiêu chuẩn thịnh hành của thị trường carbon tự nguyện, như Gold Standard, CCBA, hay PLAN VIVO…”, ông Sơn nói.

Giai đoạn cuối của dự án FCBMO, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Lâm nghiệp cam kết nâng cấp và hoàn thiện phần mềm của hệ thống iTwood để chuẩn bị sẵn sàng kinh doanh carbon từ rừng trồng. Việc nhân rộng mô hình FCBMO cũng nằm trong kế hoạch, dựa trên kết quả thực tiễn.

Với những công nghệ hiện có, Trung tâm tự tin lưu hành tín chỉ carbon rừng trồng cho chủ rừng trong khoảng từ 28 - 35 năm. Đây là con số đáng khích lệ, bởi giá tín chỉ carbon luôn có xu hướng giảm theo thời gian.

Lực lượng kiểm lâm điều tra hiện trạng rừng. Ảnh: Hồng Đức.

Thương mại thành công tín chỉ carbon là một trong những lợi ích thu được từ mã số vùng trồng rừng. GS.TS Võ Đại Hải, Giám đốc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam nhìn nhận, việc cấp mã số sẽ giúp ngành lâm nghiệp quản lý một cách chặt chẽ, thống nhất các loại rừng trên phạm vi cả nước, làm cơ sở định vị khả năng giảm phát thải trên từng lô rừng trồng gỗ nguyên liệu của chủ rừng là hộ gia đình.

“Ngay từ khi trồng cái cây xuống đất, chủ rừng đã có thể hạch toán được mình đang có bao nhiêu tín chỉ carbon trong tay. Cùng với đó là tính hợp pháp của gỗ khai thác được đảm bảo trong cả chuỗi cung”, ông phân tích, đồng thời nhấn mạnh rằng, việc số hóa dữ liệu rừng trồng còn góp phần nâng cao hiệu quả nhiều lĩnh vực có liên quan như bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển lâm nghiệp bền vững.

Cùng với chứng chỉ quản lý rừng bền vững, mã số vùng trồng rừng sẽ là xu thế chung của thị trường, theo ông Triệu Văn Lực, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp. “Để sản xuất bền vững, thích ứng tốt với các quy định mới như CBAM, EUDR, chúng ta buộc phải sản xuất một cách minh bạch, có trách nhiệm. Tiêu chuẩn rừng trồng của Việt Nam càng cao, gỗ và sản phẩm chế biến từ gỗ càng dễ thâm nhập vào những thị trường khó tính”, ông Lực nhấn mạnh.

Để đẩy mạnh việc thí điểm cấp mã số vùng trồng rừng nguyên liệu, Phó Cục trưởng đề nghị đơn vị tư vấn phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các đơn vị liên quan ở địa để làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các chủ rừng về sự cần thiết và lợi ích của việc cấp mã số vùng trồng rừng. Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong việc kiểm tra, rà soát, đối chiếu thông tin về quyền sử dụng đất, trạng thái lô rừng, chủ rừng trong quá trình thực hiện.

Ông Nguyễn Thái Bình, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Yên Bái cho rằng, việc đẩy nhanh cấp mã số vùng trồng rừng sẽ đem lại cơ hội lớn cho doanh nghiệp chế biến gỗ trong việc mở rộng, ổn định thị trường xuất khẩu; tiếp cận tốt hơn với công nghệ, cải thiện năng lực quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm.

Bảo Thắng
Tin khác
Nghề làm bún 400 tuổi bên sông Bồ trở thành di sản văn hóa quốc gia
Nghề làm bún 400 tuổi bên sông Bồ trở thành di sản văn hóa quốc gia

THỪA THIÊN - HUẾ Nghề làm bún Vân Cù (thị xã Hương Trà) và lễ hội điện Huệ Nam (thành phố Huế) được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia từ tháng 12/2024.

Triển khai toàn diện quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM
Triển khai toàn diện quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM

Ông Lê Văn Thiệt - Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật: Ngành Nông nghiệp, các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp, sẽ tiếp tục phối hợp tốt trong triển khai quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM.

Trên 47.000 cán bộ khuyến nông cộng đồng có thể tham gia chương trình IPHM
Trên 47.000 cán bộ khuyến nông cộng đồng có thể tham gia chương trình IPHM

Trình bày và đề xuất của đại diện Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang và lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia về lực lượng khuyến nông tham gia triển khai chương trình IPHM.

Cách thành phố Cần Thơ triển khai mô hình IPHM gắn với nông nghiệp sinh thái
Cách thành phố Cần Thơ triển khai mô hình IPHM gắn với nông nghiệp sinh thái

Đại diện Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật TP Cần Thơ giới thiệu cách triển khai mô hình IPHM gắn với nông nghiệp sinh thái và cảnh quan.

Cây trồng có giá trị kinh tế cao cần phân bón 'chuyên dụng'
Cây trồng có giá trị kinh tế cao cần phân bón 'chuyên dụng'

Theo GS.TS Trần Văn Hâu, nguyên Giảng viên cao cấp Trường Đại học Cần Thơ, những cây trồng có yêu cầu kỹ thuật, giá trị kinh tế cao cần có phân bón 'chuyên dụng'.

Lợi ích từ áp dụng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM
Lợi ích từ áp dụng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM

Chia sẻ của ông Lê Văn Thiệt - Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật về những lợi ích trong áp dụng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM, đảm bảo an toàn sản xuất và xuất khẩu.

Phân bón mới nâng cao hiệu suất sử dụng BiO
Phân bón mới nâng cao hiệu suất sử dụng BiO

Ông Lê Văn Hải, Tổng Giám đốc BiOWISH Việt Nam trình bày về dòng phân bón mới nâng cao hiệu suất sử dụng hữu hiệu (BIO EFF).

Mỗi năm Syngenta Việt Nam đào tạo cho 1 triệu nông dân sử dụng thuốc BVTV
Mỗi năm Syngenta Việt Nam đào tạo cho 1 triệu nông dân sử dụng thuốc BVTV

Mỗi năm Syngenta Việt Nam tiếp cận, tập huấn kỹ thuật sử dụng thuốc BVTV an toàn hiệu quả cho hơn 1 triệu nông dân. Có 250.000 nông dân được tập huấn theo chuyên đề 4 đúng, 5 nguyên tắc vàng, sử dụng thuốc và thu gom bao gói sau sử dụng có trách nhiệm.

Ứng dụng cây trồng cải tiến trong thực hành IPHM
Ứng dụng cây trồng cải tiến trong thực hành IPHM

Bà Đào Thu Vinh, Điều phối viên tổ chức Croplife Việt Nam cho biết các giống cây trồng cải tiến, kháng sâu bệnh hại giúp cây trồng khỏe mạnh hơn, có khả năng chống chịu lại các yếu tố bất lợi của môi trường và dịch hại. Đây luôn là một cấu phần quan trọng trong chương trình IPHM và IPM.

Các sinh vật gây hại mới nổi và biện pháp phòng ngừa
Các sinh vật gây hại mới nổi và biện pháp phòng ngừa

GS.TS Nguyễn Văn Tuất, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật BVTV Việt Nam, chia sẻ, nhiều sinh vật gây hại bùng phát mạnh trong điều kiện biến đổi khí hậu, cần phòng ngừa bằng tổng hợp nhiều giải pháp.

Tổng quan đề án IPHM và kết quả triển khai ở các tỉnh
Tổng quan đề án IPHM và kết quả triển khai ở các tỉnh

Ông Đỗ Văn Vấn, Giám đốc Trung tâm Bảo vệ thực vật phía Nam, Cục Bảo vệ thực vật, giới thiệu tổng quan đề án quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp - IPHM và kết quả triển khai ở các tỉnh, thành trên cả nước.

Phát triển kit chẩn đoán nhanh giám định sinh vật gây hại
Phát triển kit chẩn đoán nhanh giám định sinh vật gây hại

Ngoài một số bệnh hại sẵn có, cây trồng còn chịu tác động của nhiều sinh vật gây hại mới nổi, sinh vật ngoại lai khiến công tác phòng chống gặp khó khăn.