Những con gà đất lần lượt vỡ dọc theo tuổi thơ mãi để lại trong tôi một nỗi gì sâu thẳm, giống như một linh hồn…
Nhan đàm Hoàng Phủ Ngọc Tường: Quẻ Vị Tế - Chim huyền hạc – Con gà đất của tôi
Quẻ Vị Tế (chưa qua sông) nằm ở vị thứ sau cùng, kết thúc chuỗi liên hoàn của 64 quẻ Dịch. Tôi thường đọc Vị Tế bằng nỗi xúc động thật sự như đọc một bài thơ cuộc đời; bởi nó phát đi một dự báo đầy lo âu về cuộc hành trình mà con người phải vượt qua suốt cõi nhân sinh: rằng, có một dòng sông đang ở phía trước, và đừng quên rằng anh là một người chưa qua sông.
Người đi trong Ngũ Hành, vòng đời trải qua đủ 64 thời kỳ của Dịch, trải đủ nỗi gian nguy (quẻ Truân, Khảm, Kiến…), chia lìa (quẻ Khuê, Phong...), hưởng được niềm vui (quẻ Thắng, Quy muội...): hết thời âm thịnh (quẻ Bát) đến buổi dương hồi (quẻ Phục), hết Bĩ lại Thái. Vận mệnh thịnh suy, đường thế gập ghềnh, người đi tới cuối cuộc lữ hành ngồi thở phào nhẹ nhõm ở quẻ Ký Tế (đã qua sông; quẻ 63). Đến đây, người tưởng rằng việc đã xong, nợ đời đã trả, chỉ còn một bước nữa thôi là đi hết đường dài. Điều hoàn toàn bất ngờ của Kinh Dịch, ở cái bước sau cùng ấy lại chính là quẻ Vị Tế: Một dòng sông khác lại hiện ra trước mặt, và con người phải tiếp tục cất bước, khởi đầu trở lại cuộc hành trình. Ðúng như thế, Vị Tế là một thông điệp vĩnh hằng về phận người: “Hỡi người, người sinh ra không phải để yên nghỉ mà lên đường, lên đường bằng tất cả lo âu của kẻ vượt sông”.
Tôi còn nhớ trong một thiên tùy bút tuyệt vời, Thanh Tịnh đã tả lại nỗi ám ảnh sâu sắc của ông về tiếng gọi đò: Nhà ở bên bến đò chợ Dinh, nhà văn nằm gối tay theo dõi tiếng gọi đò bạt gió, biết chừng đâu có người con không kịp mang thuốc về cho mẹ ốm nặng, biết chừng đâu có người yêu đã lỡ hẹn để xảy ra cuộc chia lìa... Người bộ hành cứ tưởng hắn đang qua sông một mình, không biết rằng vẫn có một người mất ngủ, lòng với theo từng chuyến đò đêm mưa, nỗi lo sông nước, đò giang nặng trĩu trên từng bước chân người xưa suốt dọc đường đời. Bên bờ phá Tam Giang có bến đò Ca Cút, bờ xa sóng lượn nổi danh về tiếng gọi đò vô vọng. Truyền thuyết kể rằng có một người tình lỡ hẹn vì không có đò, cứ gọi mãi đến vỡ cổ, chết hóa thành con chim Ca Cút kêu đò khắp bốn phương trời:
“Ơi đò Ca Cút, cho qua một chút!”
Kinh nghiệm gay gắt của thực hữu dồn nén trong nỗi hàm quẻ Ký Tế đứng ngay trước Vị Tế, cảnh giác con người bằng nỗi lo âu về cuộc hành trình làm người còn đang tiếp nối. Chính vì thế, khi làm thầy dạy vua Lê Thánh Tôn, Nguyễn Mộng Tuân khuyên vua trong bài thơ “Dân như thủy”:
Người làm vua hãy thấy mình như đứng bên vực thẳm
Qua sông rồi, phải nhớ lại nỗi lo lúc chưa qua…
(Quân tâm khả cảm uyên biên ngộ
Ký Tế hồi Vị Tế ưu).
Người Trung Hoa bảo rằng vua Phục Hy đã phỏng theo bức hình đồ trên lưng con long mã ở sông Hoàng Hà vạch ra tám quẻ Dịch cơ bản. Có lẽ quẻ Vị Tế kết đọng nỗi ám ảnh sông Hoàng Hà, con sông mẹ của văn hóa phương Bắc, cuồn cuộn, dữ dội, đã một lần hiện bóng trong thơ Lý Bạch: “Sông Hoàng Hà ngọn nước tự lưng trời”… (Quân bất kiến: Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai...).
Điều lạ lùng đối với tôi, là hình như nhiều dòng triết học về con người đều tụ nơi quẻ Vị Tế của Kinh Dịch. Trước hết là Khổng Tử, câu nói kinh điển của ông: “Mến người có nhân là dân, nhưng chở thuyền và làm lật thuyền cũng là dân” là tư tưởng chính trị căn bản nhất triển khai từ bài học của quẻ Vị Tế.
Phật dạy con người phải chèo, chèo mãi vì giác ngạn hãy còn xa: gatê, gatê Paragatê, parasamgatê, buddhi svaha! (đi qua bờ bên kia, giác ngộ, reo vui!). Văn hóa dân gian Việt Nam có điệu múa Bả Trạo (chèo thuyền) để đưa linh hồn vượt dòng sông cuối cùng sang thế giới khác, và như vậy quẻ Ký Tế đích thực chỉ chờ con người ở bên kia dòng sông đó. Còn nỗi lo âu (angoisse) thường trực trước hiện hữu là hạt nhân của triết học hiện sinh, đặc biệt với S.Kierkegaard và J.P.Sartre, chắc nhiều người biết.
Nên chi, trong cuộc dấn thân giữa cõi đời, dù đường dài chỉ còn một bước nữa thôi, con người không được quên lời dạy minh triết của quẻ Vị Tế, rằng đời người vẫn còn đầy những bất trắc khôn lường, phải biết nghiêm cẩn giữ mình, đừng bao giờ tự buông thả trong ảo tưởng về một cuộc “hạ cánh an toàn”. Sự thâm thúy của Kinh Dịch hàm chứa trong chính ký hiệu sau cùng của nó là trên lửa - dưới nước (quẻ Ly/quẻ Khảm). Hèn chi, đến bậc Thánh đã san định Kinh Dịch như Khổng Tử mà vẫn hằng run sợ: “Cho ta sống thêm ít năm nữa. Để học Kinh Dịch, hầu không mắc lầm lỗi lớn”.
Chim huyền hạc
Các cụ xưa thường tặng nhau trên hoành phi ba chữ “Tri sở chi” (Biết chỗ dừng); ngụ ý khuyên bảo hoàn thiện nhân cách để dừng lại ở chỗ chí thiện (Chỉ ư Chí Thiện).
Chu Hy, hiền triết đời Tống, đã dùng hình tượng chim hoàng điểu để giảng ý niệm về “chỗ dừng”, nói rằng - Chim hoàng điểu bay qua bay lại - Đậu nơi gò đống (Giao giao hoàng điểu - Chi vu kỳ ngung).
Hoàng điểu là con chim nhỏ bay xập xòe ngoài đồng để kiếm mồi; Kinh Thi nói rằng hoàng điểu đậu trên cây gai, đậu trên cây dâu, đậu trên cây sở... Chu Hy khen chim hoàng điểu “biết đậu đúng chỗ của mình” và láy lại rằng: “Huống nữa con người lại không bằng chim hay sao”. Chỗ đậu mà con người phải đạt tới, chính là chí thiện vậy.
Ấy, các bậc tiên nho đều dùng chim hoàng điểu làm biểu tượng cho đức tính "tri sở chi”, để học theo nó.
Nhưng Cao Bá Quát thì khác.
Thơ Cao Bá Quát nói nhiều về loại chim. Tựu trung có con chim hồng chí lớn tung trời, bay cao tận mây xanh; chim phượng cốt cách thanh quí, đói chỉ ăn quả trúc; con hạc nội thảnh thơi bên ngoài bụi hồng... Chúng ta đều biết, thời và mệnh của Cao Bá Quát mang những yếu tố đối kháng với những khát vọng cao lớn của tâm hồn ông; vâng, cái thời ấy, cái mệnh ấy mà ông đã mô tả bằng sự im lặng bất cần đời:
Nhãn khan cao điểu độc phàn lung
Tự ý thằng sáng bất ngữ trung
(Mắt nhìn những con chim có sức bay cao mà bị nhốt trong lồng - Một mình trên võng lẳng lặng không nói...).
Cao Bá Quát đã xác định như thế để khỏi ảo tưởng về thời ông đang sống, thời đất nước ảm đạm kéo dài dưới vương triều Tự Đức, thời ấy “chim hạc ốm, chim hồng đau, và niềm hy vọng đã chững lại” (Bệnh hạc thương hồng vọng dĩ cô).
Chính vì thế, làm gì có chuyện chim hoàng điểu bay về đậu ở nơi Chí Thiện như Chu Hy nói; hoàng điểu chẳng qua là con chim bay lượn kiếm ăn nơi gò đống.
Lúc này, trong thơ Cao Bá Quát hiện bóng một con chim lạ: chim hạc đen. Theo truyền thuyết, chim hạc sống hai nghìn năm thì lông thành màu xanh, sống thêm một nghìn năm nữa thì lông thành đen, gọi là huyền hạc. Ông nói:
Quân bất kiến hồng hộc cao phi thanh vân thượng.
Huyền hạc độc túc thanh sơn hạng.
Hoàng điểu hoàng điểu quy thực trường...
(Há chẳng thấy: chim hồng hộc bay tít tận mây xanh.
Chim huyền hạc ngủ đêm một mình bên sườn núi.
Chim hoàng điểu về chỗ kiếm ăn).
Thuở vào đời, Cao Bá Quát đã từng nuôi một giấc mơ hùng tráng lạ thường, trèo lên đỉnh núi cao hát một bài ca vang dậy cả mây nước. Hiển nhiên là giấc mơ đã không thực hiện được. “Hẹn thế mà được đâu - Phàm sự đều như vậy”.
Giấc mơ đầy hùng tâm tráng chí đó rốt cuộc đã vỡ ra thành vị đắng của hiện hữu vướng vất trong văn chương Cao Bá Quát.
Có lẽ trong những năm làm ông thầy đồ dạy trẻ ở núi rừng Sơn Tây, Cao Bá Quát đã nhìn thấy hình ảnh của ba con chim nói trên hiện ra trong tầm mắt. Và nếu Cao Bá Quát đã không làm được con chim hồng bay cao chín tầng mây, thì ông cũng không bao giờ là con hoàng điểu kiếm ăn bên cây gai, bên cây dâu…
Có một con huyền hạc, thân xác rỗng không như khí trời, tâm linh tràn đầy ánh sáng, đêm đêm qua giấc ngủ của ông.
Con gà đất của tôi
Ở Huế có một cái chợ rất lạ, mỗi năm chỉ đông trong ba ngày Tết, sau đó thì dẹp tiệm. Đó là chợ Gia Lạc, do ông Hoàng Định Viễn (con vua Gia Long) lập nên, lúc đầu chỉ nhằm làm nơi mua bán vui chơi cho các vương gia tôn nữ thuộc các Phủ vùng Vỹ Dạ, sau lan rộng thành chợ dân gian. Đây là một chợ phiên ngày Tết rất nổi tiếng ở Huế, tôi có ý định sẽ quay lại giới thiệu vào dịp khác. Chợ nào cũng là của người lớn; nhưng trong tâm thức tôi, Gia Lạc là chợ của trẻ con, ở đó tôi có thể thấy bao nhiêu đồ chơi dân dã cho tuổi thơ ngày xưa.
Có loại đồ chơi nho nhỏ, những con cá, những con chim, nhiều loại hoa trái, có cả ông Trạng cưỡi ngựa bạch, bà Trưng cưỡi voi… tất cả đều làm bằng bột sắn sặc sỡ đủ màu. Chúng tôi rất thích các món đồ bột này, về bày cỗ cúng tế, và sau đó đem… nướng ăn, ngon làm sao! Loại thứ hai lớn hơn, nặn bằng đất sét tô màu, gồm những cầm thú như voi, cọp, ngựa, trâu, gà, tu huýt, vân vân…, tất nhiên có cả con heo mập ú dùng để bỏ xu, hào suốt năm. Loại thứ 3 làm bằng tre và giấy ngũ sắc, có các thứ chong chóng, trống lùng tung, con ve ve, con nhảy vọt… Tuổi thơ của tôi chỉ quanh quẩn với bấy nhiêu thứ đồ chơi ấy, nhưng không bao giờ chán, và suốt đời không quên nổi.
Trong các món đồ chơi, tôi say mê nhất là con gà đất: Một chú trống đẹp mã, oai vệ, với chiếc kèn lá tơi cài vào ức để tạo ra tiếng gáy. Đến bây giờ, tôi vẫn còn cảm nhận được niềm vui kỳ diệu ấy tái sinh trong tâm hồn, khi nhớ lại buổi sáng sớm, tôi mang con gà ra đứng trước thềm, ấp nó giữa lòng bàn tay, dồn hơi đầy ngực, ngửa mặt lên trời và gập người dần dần lúc hạ giọng, giống y như dáng điệu con gà lúc gáy. Còn gì vui hơn với một đứa bé, khi nó được hóa thân thành con gà trống để dõng dạc cất lên điệu nhạc sớm mai: “Ó… ò…o”! Bao giờ tôi cũng thử rất lâu để chọn được một con gà đất có giọng trầm; biết cách bụm hai bàn tay để điều khiển giọng gáy thật sinh động, giống như người nghệ sĩ thổi kèn đồng.
Bây giờ tôi hiểu ra, những đồ chơi trẻ con thời ấy rất hấp dẫn bởi tính mong manh của chúng. Chiếc trống lùng tung bị thủng trong chốc lát, con ve bị đứt dây, con gà đất rồi cũng vỡ trên tay đứa bé. Vâng, thử tưởng tượng một quả bong bóng không bao giờ vỡ, không thể bay mất, nó cứ còn mãi như một vật lì lợm… Ôi, nếu thế thì còn đâu là quả bong bóng bay? Đồ chơi trẻ con, đó là nỗi vui mừng khi có được trong tay, và còn là nỗi tiếc nuối khi bỗng dưng bị mất nó. Những con gà đất lần lượt vỡ dọc theo tuổi thơ mãi để lại trong tôi một nỗi gì sâu thẳm, giống như một linh hồn.
Suốt mười năm sau chiến tranh, Tết nào tôi cũng trở lại chợ Gia Lạc tìm con gà đất cho hai bé của tôi. Nhưng tôi không bao giờ tìm thấy. Tuổi nhỏ cùng thời của chúng đã lần lượt chơi đùa với những gươm súng bằng nhựa, xe tăng bằng sắt, và bây giờ là trò chơi điện tử với những cuộc săn đuổi và tiêu diệt lẫn nhau. Cũng thật say mê hấp dẫn, nhưng liệu những đồ chơi kia sẽ nuôi nấng được chút gì cho tâm hồn trẻ thơ của chúng? Tôi không chống lại sự phát triển kỹ thuật hiện đại, cả trong đồ chơi trẻ con. Tôi chỉ thương cho những con tôi, tuổi thơ qua đi không hề biết tới những đồ chơi dân gian kia, vốn dĩ chất phác thôi, nhưng đã truyền cho tôi hơi thở sâu dày ngàn vạn năm của điều mà ta gọi là “văn hóa dân tộc”.
Hôm nọ, đêm khuya tôi nằm nghe tiếng kèn saxo của Trần Vĩnh từ hải ngoại gửi về cho, chơi toàn những bài hát xưa. Tự nhiên tôi quặn lòng, tưởng nghe lại tiếng gà đất đang gáy từ một cõi trời nào xa hút.