Thực hiện Quyết định số 809/QĐ-TTg ngày 12/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ, Chương trình Phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2021-2025 đã được triển khai tích cực và mang lại nhiều kết quả nổi bật.
Theo báo cáo của Bộ NN-PTNT, chương trình đã đạt nhiều chỉ tiêu, nhiệm vụ. Theo đó, tỷ lệ che phủ rừng đạt trên 42,2%, đáp ứng chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
Qua hơn hai năm thực hiện, đến nay, 47/60 tỉnh thành đã thành lập và kiện toàn Ban Chỉ đạo cấp tỉnh, đồng thời giao nhiệm vụ cho các đơn vị và lập văn phòng thường trực để tham mưu triển khai.
Công tác tổ chức thực hiện, chỉ đạo điều hành, văn bản hướng dẫn đã được Bộ NN-PTNT, các Bộ, ngành, địa phương xây dựng, đảm bảo triển khai thực hiện hiệu quả chương trình; việc ban hành một số chính sách đầu tư trong lâm nghiệp thay thế các chính sách hiện hành, làm cơ sở để triển khai, hỗ trợ công tác quản lý bảo vệ rừng, nâng cao thu nhập cho người dân tham gia bảo vệ rừng.
Công tác thông tin, truyền thông, phổ biến pháp luật, tập huấn các văn bản hướng dẫn được kịp thời, góp phần nâng cao nhận thức, tổ chức thực hiện hiệu quả chương trình.
Giá trị gia tăng lâm nghiệp tăng trung bình đạt 4,6%/năm. Giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản giai đoạn 2021-2023 đạt trung bình 15,8 tỷ USD/năm, chiếm 88% kế hoạch. Riêng năm 2024, giá trị xuất khẩu ước đạt 16 tỷ USD, tăng 5,2% so với kế hoạch. Giá trị nhập khẩu gỗ trong 11 tháng đầu năm 2024 ước đạt 2,512 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm 2023.
Cùng với đó, công tác bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học các hệ sinh thái rừng được nâng cao. Hơn 14,86 triệu ha rừng hiện có được bảo vệ tốt, duy trì cơ cấu 3 loại rừng hợp lý (rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất).
Đồng thời, công tác bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng tiếp tục được các địa phương quan tâm chỉ đạo thực hiện, số vụ vi phạm pháp luật về lâm nghiệp, diện tích rừng bị thiệt hại đều giảm. Tuy nhiên, vẫn còn một số điểm nóng về tình trạng phá rừng tại một số tỉnh như: khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên và Nam bộ. Nguyên nhân chủ yếu là phá rừng lấy đất làm nương rẫy.
Thực hiện hiệu quả công tác bảo tồn đa dạng sinh học tại 167 khu rừng đặc dụng (vườn quốc gia, khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài và sinh cảnh,...), các khu rừng có tính đa dạng sinh học cao; triển khai các hoạt động theo Đề án tăng cường năng lực quản lý hệ thống khu bảo tồn đến năm 2025, tầm nhìn 2030.
Phát triển và nâng cao năng suất, chất lượng rừng, triển khai các biện pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên có trồng bổ sung. Đến nay, diện tích khoanh nuôi xúc tiến tái sinh đạt 136 nghìn ha/năm, đạt 136% chỉ tiêu của Chương trình, trong đó khoanh nuôi chuyển tiếp chiếm 86%; 10 tháng đầu năm được 123.839 ha, ước cả năm 2024 đạt khoảng 130.000 ha, bằng 100% kế hoạch năm.
Giai đoạn 2021-2023, diện tích trồng rừng tập trung bình quân đạt 260.400 nghìn ha/năm, bằng 113% kế hoạch của chương trình, trong đó: rừng đặc dụng, phòng hộ đạt 8.700 ha/năm, rừng sản xuất đạt: 251.700 ha/năm.
Đến nay, hơn 595.488 ha rừng đã có chứng chỉ quản lý rừng bền vững, trong đó FSC: 415.882 ha (86 chứng chỉ), chiếm gần 70%; VFCS/PEFC: 179.606 ha, chiếm 30%, đạt 119% mục tiêu đến năm 2025. Tính đến hết tháng 11/2024 đã có khoảng 135.000 ha rừng được cấp mới chứng chỉ, vượt kế hoạch năm 2024.
Chi trả dịch vụ môi trường rừng bao gồm dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon được triển khai hiệu quả, trở thành một nguồn tài chính quan trọng và bền vững của ngành lâm nghiệp; góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển rừng, tăng thu nhập cho chủ rừng và người làm nghề rừng.
Nguồn thu dịch vụ môi trường rừng giai đoạn 2021-2023 trung bình đạt 3.650 tỷ đồng/năm. Riêng năm 2024, ước thu đạt 3.700 tỷ đồng, góp phần bảo vệ hơn 7,3 triệu ha rừng, chiếm 49,6% tổng diện tích rừng toàn quốc.
Kinh phí hỗ trợ từ ngân sách trung ương đã phân bổ kịp thời, đúng quy định đảm bảo thực hiện hiệu quả công tác bảo vệ và phát triển rừng. Giai đoạn 2021-2024, kinh phí huy động thực hiện chương trình ước đạt 71.388 tỷ đồng, bình quân 17.850 tỷ đồng/năm. Ngân sách nhà nước đóng góp 10.519 tỷ đồng, chiếm 14,8%, trong khi các nguồn khác.
Chính sách giao đất, giao rừng, khoán bảo vệ rừng, hỗ trợ bảo vệ rừng, đã góp phần tạo nguồn thu nhập và sinh kế cho người dân, đời sống của người dân từng bước được cải thiện; tạo việc làm cho khoảng 5 triệu lao động trực tiếp, góp phần giảm nghèo và xây dựng thành công mô hình nông thôn mới trong các vùng lâm nghiệp trọng điểm.
Hợp tác quốc tế về lâm nghiệp phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, qua đó tăng cường hợp tác phát triển sản xuất và thúc đẩy thị trường xuất khẩu lâm sản, phát triển thị trường carbon.
Từ những kết quả đạt được trong giai đoạn 2021-2024 cho thấy tính hiệu quả và sự cần thiết của Chương trình Phát triển lâm nghiệp bền vững. Tuy nhiên, các thách thức về quỹ đất, tài chính và vi phạm pháp luật lâm nghiệp cần được xử lý quyết liệt hơn trong thời gian tới.
Việc tiếp tục triển khai hiệu quả chương trình không chỉ góp phần phát triển kinh tế lâm nghiệp mà còn đáp ứng các mục tiêu về bảo tồn môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.