Tại Hội nghị COP26, Việt Nam đã đưa ra tuyên bố đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 với sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế. Để hiện thực cam kết này, Chính phủ đã ban hành Chiến lược “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050”.
Với mục tiêu Xanh hóa nền kinh tế, chiến lược đặt ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP giảm ít nhất 15% so với năm 2014; đến năm 2050, cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP giảm ít nhất 30% so với năm 2014.
Để đạt được mục tiêu thách thức này, cần sự quyết tâm rất lớn của cả hệ thống chính trị, trong đó trọng tâm là sự đồng hành, nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp Việt.
Tuy nhiên, báo cáo "Mức độ sẵn sàng và khó khăn của doanh nghiệp trong chuyển đổi xanh" vừa được Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV, thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ) công bố cho thấy, phần lớn doanh nghiệp Việt hiện vẫn chưa có sự chuẩn bị và đánh giá đúng mức về sự cần thiết của "chuyển đổi xanh".
Chuyển đổi xanh đang là “một cuộc đua” ở cấp độ toàn cầu
Theo các chuyên gia của Ban IV, chuyển đổi xanh đang trở thành “một cuộc đua” ở cấp độ toàn cầu. Các quốc gia lớn đã và đang dành nhiều nguồn lực và thiết kế nhiều khuôn khổ pháp lý lẫn thực tiễn để thúc đẩy chuyển đổi xanh tại quốc gia cũng như tạo tác động tới các quốc gia khác.
Vì vậy, Việt Nam cần tham gia với quyết tâm và nỗ lực tương xứng với cam kết mạnh mẽ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tại COP26, COP27 để khẳng định sự tiên phong của quốc gia cũng như tranh thủ một cách hiệu quả các nguồn lực quốc tế trong bối cảnh chuyển đổi xanh.
Đáng chú ý, chuyển đổi xanh hiện không đơn thuần là một số chính sách đơn lẻ mà gồm hệ thống các chính sách cùng thiết kế chương trình thực thi chính sách để chuyển đổi từ đầu tư, thương mại, phát triển các lĩnh vực kinh tế, thúc đẩy các sáng kiến xanh… đến các hoạt động giảm phát thải trong thực tế.
Do đó, Việt Nam cần xây dựng và vận hành chiến lược, chương trình chuyển đổi xanh quốc gia mang tính tổng thể, do Chính phủ chỉ đạo, với sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương, giữa khu vực nhà nước với doanh nghiệp, người dân, với trách nhiệm, thời gian biểu, chỉ tiêu, biện pháp, cách thức đo đếm hiệu quả/giám sát kết quả cụ thể.
Báo cáo cũng nhấn mạnh, các thị trường lớn của Việt Nam đều đang đẩy mạnh thực thi cam kết Net-Zero, do đó, nhiều chính sách mới đã ban hành, dự kiến ban hành đều hướng đến tạo dựng các hàng rào kỹ thuật về phát triển xanh, bền vững, giảm phát thải khí nhà kính.
Tuy nhiên, có một thực tế không vui là mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp Việt Nam chưa cao. Theo đó, có trên 50% doanh nghiệp tham gia khảo sát đánh giá chuyển đổi xanh chưa thật sự cần thiết. Đồng thời, 64% doanh nghiệp còn chưa có sự chuẩn bị đối với chuyển đổi xanh.
Vì vậy, Ban IV khuyến nghị, Việt Nam cần phải thúc đẩy nhanh chóng các chương trình nâng cao năng lực cùng các chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp thích nghi với cuộc chơi mới, đặc biệt tập trung vào các vấn đề: Tài chính xanh, Nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật, Thị trường tín chỉ carbon, Chuyển đổi công nghệ và năng lượng.
Tỷ lệ doanh nghiệp ngành nông, lâm, thủy sản coi trọng chuyển đổi xanh là cao nhất
Theo kết quả khảo sát, có 48,7% doanh nghiệp đánh giá rằng giảm phát thải, chuyển đổi xanh là cần thiết/rất cần thiết. Trong đó, 16,9% đánh giá là rất cần thiết.
Dù vậy, vẫn còn tới 17,4% đánh giá là không cần thiết/rất không cần thiết và 33,9% đánh giá tính cần thiết của việc chuyển đổi này chỉ ở mức độ bình thường.
Đáng chú ý, kết quả nghiên cứu cho thấy, các doanh nghiệp ngành nông, lâm thủy sản và công nghiệp đánh giá mức độ cần thiết phải chuyển đổi xanh cao hơn so với doanh nghiệp ngành xây dựng, dịch vụ.
Cụ thể, có tới 59,6% doanh nghiệp ngành nông, lâm, thủy sản đánh giá cần thiết phải giảm phát thải, chuyển đổi xanh, trong đó 24,9% đánh giá là rất cần thiết. Tỷ lệ này ở doanh nghiệp ngành công nghiệp là 54,1%.
Trong khi đó, doanh nghiệp ngành xây dựng và dịch vụ là khoảng 45%. Một số ngành đặc thù nhận diện sự cần thiết khá cao như doanh nghiệp sản xuất dệt may với 55,9%. Doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo 52,6%, doanh nghiệp khai khoáng 56,5%, doanh nghiệp vận tải kho bãi là 48,8%.
Về tổng thể, các doanh nghiệp FDI có tỷ lệ đánh giá cần thiết phải giảm phát thải, chuyển đổi xanh cao hơn một chút so với doanh nghiệp trong nước (55,2% so với 48%). Doanh nghiệp có doanh thu càng lớn thì đánh giá mức độ cần thiết càng cao.
Như trên, liên quan đến mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp trong hoạt động giảm phát thải, chuyển đổi xanh, còn tới 64% doanh nghiệp được khảo sát cho biết “chưa chuẩn bị gì”.
Với các hoạt động “cắt giảm lượng khí thải trong một số hoạt động trọng tâm” chỉ có 5,5% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết “đã thực hiện”, còn tỷ lệ doanh nghiệp “đã thực hiện theo dõi và công bố kết quả giảm phát thải hàng năm” ở mức rất thấp, chỉ ở mức 3,8%.
Thêm một điểm đáng chú ý, các doanh nghiệp chỉ hoạt động nội địa có mức độ sẵn sàng không cao như các doanh nghiệp hoạt động hướng đến xuất khẩu. Trong khi 68,7% doanh nghiệp có phạm vi hoạt động trong nước chưa chuẩn bị gì cho giảm phát thải, chuyển đổi xanh thì tỷ lệ này ở doanh nghiệp có phạm vi hoạt động ở nước ngoài và cả nội địa và nước ngoài lần lượt là 53,7% và 55,6%.
Trước thực tế này, bà Phạm Thị Ngọc Thủy, Giám đốc Văn phòng Ban IV cho rằng: “Với các diễn biến chính sách từ các thị trường lớn như châu Âu, Mỹ và nội luật hóa ở Việt Nam, việc các doanh nghiệp dường như chưa chuẩn bị gì sẽ tạo ra những sức ép rất lớn trong tương lai khi các quy định hết thời gian chuyển tiếp và chuyển sang giai đoạn bắt buộc tuân thủ”.
Nguồn vốn đang là khó khăn lớn nhất với các doanh nghiệp
Phản ánh của các doanh nghiệp tham gia khảo sát cho thấy, họ gặp nhiều khó khăn trong quá trình chuyển đổi xanh, từ thông tin, nguồn vốn, nhân sự có chuyên môn…
Trong đó, ba khó khăn lớn nhất với các doanh nghiệp là: Nguồn vốn để thực hiện giảm phát thải, chuyển đổi xanh; Nhân sự có chuyên môn về giảm phát thải, chuyển đổi xanh và Các giải pháp kỹ thuật cụ thể, phù hợp.
Trong ba khó khăn trên, nguồn vốn hiện là khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp gặp phải trong quá trình giảm phát thải, chuyển đổi xanh.
Cụ thể, có trên 50% doanh nghiệp được khảo sát cho rằng họ gặp phải khó khăn về vốn. Trong khi chỉ có 5,9% cho rằng không có khó khăn gì về vốn.
Theo ban IV, đây là một vấn đề cần sự quan tâm đặc biệt vì trong khi doanh nghiệp rất cần vốn cho giảm phát thải, chuyển đổi xanh để đón đầu các cơ hội thì tài chính xanh chưa phát triển tương ứng. Sau hơn 10 năm, tài chính xanh được triển khai ở Việt Nam nhưng quy mô vẫn nhỏ, tín dụng xanh chỉ chiếm 4.5% tổng dư nợ (tới hết năm 2023), trong khi trái phiếu xanh còn rất ít.
Thống kê cho thấy, tính đến hết năm 2023, mới có 47 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng xanh với gần 621 ngàn tỷ đồng, tăng 24% so với cùng thời điểm năm 2022, chiếm khoảng 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Trong đó, rín dụng xanh hiện nay chủ yếu tập trung vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (gần 45%) và nông nghiệp xanh (gần 30%).
Mặt khác, việc triển khai tín dụng xanh còn nhiều vướng mắc như chưa có khung pháp lý, chính sách tổng thể trong khi các nguồn vốn cho vay của các tổ chức tín dụng thường là vốn huy động ngắn, trung hạn và bên vay đòi hỏi lãi suất ưu đãi. Với trái phiếu xanh, còn thiếu các hướng dẫn chi tiết của các cơ quan chức năng (thông tin, tiêu chí về dự án xanh); cơ chế quản lý, giám sát việc sử dụng nguồn vốn; khung pháp lý…
Đáng chú ý, liên quan đến trái phiếu xanh, tính đến hết năm 2023, giá trị lưu hành trái phiếu xanh tại Việt Nam mới chỉ chiếm 1% trong tổng quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp, theo số liệu thống kê từ AsianBondsOnline.