| Hotline: 0983.970.780

Liên kết sản xuất chè VietGAP

Thứ Tư 26/06/2019 , 13:10 (GMT+7)

Nhờ liên kết thâm canh chè theo hướng VietGAP và chế biến sau thu hoạch trên dây chuyền máy móc hiện đại, anh Trần Văn Thắng ở xóm Hồng Thái 2, xã Tân Cương, huyện Đại Từ, Thái Nguyên đã đều đặn thu được lợi nhuận 500 triệu đồng mỗi năm.

07-57-51_che_ti_sinh_su_don_du
Nương chè VietGAP của anh Thắng.

Cơ sở của anh tạo việc làm thường xuyên cho 18-20 lao động địa phương, mức thù lao 120-200 nghìn đồng/người/ngày, tùy theo tay nghề.

Sau đi thăm khắp các nương chè đang kỳ thu hái, chúng tôi đã ghi nhận được: Vùng nguyên liệu này bao gồm 6ha của 5 hộ liên kết sản xuất, do gia đình anh Thắng làm nòng cốt trực tiếp trồng 2ha chè và chịu trách nhiệm chế biến, bao tiêu toàn bộ sản phẩm đầu ra cho các hộ.

Các hộ có trách nhiệm tuân thủ chặt chẽ qui trình thâm canh chè theo hướng VietGAP, bao gồm: Chọn trồng các giống chè có năng suất chất lượng cao, có khả năng chống chịu tốt. Chăm bón chủ yếu bằng phân hữu cơ mục kết hợp với phân bón vi sinh. Ưu tiên sử dụng thuốc phòng trừ sâu bệnh có nguồn gốc sinh học (thảo mộc, vi sinh). Chỉ dùng thuốc hóa học khi sâu bệnh có nguy cơ phát sinh thành dịch hại lớn, nhưng phải đảm bảo thời gian cách ly tối thiểu cho từng loại thuốc trước khi thu hoạch. Và cũng chỉ được dùng các thuốc trong danh mục nhà nước cho phép sử dụng trên rau quả an toàn. Thu hái chè đúng kỹ thuật, tùy theo thành phẩm sau chế biến.

Để có thể chế biến và tiêu thụ hết sản lượng chè làm ra, anh Thắng đã đầu tư hàng tỷ đồng xây dựng nhà xưởng và nhập ngoại dây chuyền chế biến chè xanh tự động. Thuê tư vấn thiết kế logo sản phẩm. Đảm bảo các loại chè xuất xưởng đều được bao gói qui cách, có mã vạch chuẩn, có chỉ dẫn địa lý rõ ràng, thuận tiện cho truy nguyên nguồn gốc khi cần.

07-57-51_dy_chuyen_che_biet_che_hien_di
Dây chuyền chế biến chè hiện đại.

Do quyền lợi của các hộ gắn kết chặt chẽ với nhau thông qua chuỗi giá trị chè xanh. Nên giữa các hộ đã có sự tự quản lý giám sát lẫn nhau trong quá trình thực hiện VietGAP. Nhiều hộ còn chủ động phát huy sáng kiến kinh nghiệm, cải tiến qui trình kỹ thuật canh tác, giúp gia tăng năng suất, chất lượng chè.

Bằng những cách làm thiết thực nói trên, mỗi năm anh Thắng cùng các gia đình liên kết đã sản xuất và cung ứng ra thị trường được hơn 8.000kg chè xanh các loại. Doanh thu 3 tỷ đồng.

Sản phẩm đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của nhiều tầng lớp người tiêu dùng trong nước, như: Chè đinh cung ứng cho những người có thu nhập cao. Chè nõn cho lớp người thu nhập khá. Chè móc câu phục vụ giới bình dân. Tất cả các loại chè này đều được Chi cục Quản lý chất lượng NLS&TS Thái Nguyên chứng nhận đạt yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm.

Chia sẻ với chúng tôi, anh Thắng cho biết: “Trồng chè VietGAP từ năm 2011, nhưng chỉ vài năm gần đây mới có lãi. Bởi sản xuất chè VietGAP đòi hỏi kỹ thuật cao hơn, tốn nhiều công lao động hơn, mà giá bán cũng chỉ bằng chè không VietGAP, do người tiêu dùng rất khó phân biệt giữa chè sạch và chè không sạch. Sau này nhờ có sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan truyền thông, sự quản lý giám sát chặt chẽ của các cơ quan nhà nước, đã giúp cho những sản phẩm chè có địa chỉ sản xuất rõ ràng, tăng dần được giá bán, sản xuất có lãi, trong đó có gia đình tôi.”

07-57-51_nht_ky_chm_soc_che_vietgp
Nhật ký ghi chép chè VietGAP.

Theo anh Thắng: “Liên kết để sản xuất kinh doanh chè là xu hướng tất yếu. Nếu cứ mạnh ai lấy làm, bất chấp vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ không những không mở rộng phát triển được, mà còn có thể mất đi nhiều cơ hội khác. Vì đời sống nhân dân đang ngày càng được nâng cao. Người tiêu dùng sẽ sẵn sàng chi trả cao cho nhu cầu bảo vệ sức khoẻ.

Ví như gia đình tôi nhờ liên kết trồng chè đã chủ động được nguồn nguyên liệu chất lượng tốt cho khai thác hết công suất máy móc chế biến. Có được vùng sản xuất lớn đã mua được các loại vật tư phục vụ sản xuất (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật...) với giá cạnh tranh hơn. Đặc biệt là khai thác được sức mạnh trí tuệ tập thể trong những thời khắc sản xuất kinh doanh khó khăn”.

“Thâm canh chè theo VietGAP năng suất có thể thấp hơn 10-15% so với chè không VietGAP, nhưng chất lượng thành phẩm sau chế biến sẽ ngon hơn khác biệt, giá bán cũng cao hơn từ 20-25%, tùy loại”, anh Thắng chia sẻ.

Xem thêm
Một con bò có thể tạo ra 2 tỷ điểm dữ liệu trong suốt cuộc đời

Theo các chuyên gia ngành chăn nuôi Mỹ, ứng dụng công nghệ gen đóng vai trò quan trọng trong nhân giống bò sữa, giúp tối đa hóa tiến bộ di truyền.

Truy tố những trường hợp để chó, mèo gây hậu quả nghiêm trọng

Đắk Lắk sẽ điều tra, truy tố, xử lý nghiêm những trường hợp không tuân thủ quy định trong việc nuôi, quản lý chó, mèo để xảy ra hậu quả nghiêm trọng.

Đốt rơm rạ là... đốt tiền

ĐỒNG THÁP Chưa khi nào nông dân thấy giá trị của rơm rạ như bây giờ, thu hoạch xong không đốt bỏ mà bán cho hợp tác xã, xử lý thành các sản phẩm đa dụng...

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm