| Hotline: 0983.970.780

Một số đối tượng nuôi biển phổ biến

Thứ Sáu 05/07/2019 , 09:06 (GMT+7)

Theo Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 (Viện 1), giống cá song chấm nâu (là loài cá song nuôi phổ biến nhất) đã được sản xuất đại trà.

Công nghệ sản xuất giống cá song chấm nâu ổn định, có thể chủ động sản xuất với số lượng lớn ngay trong nước, mà trước đây chủ yếu là nhập khẩu từ Đài Loan, Trung Quốc. Công nghệ nuôi thương phẩm cá song chấm nâu cũng đã được người dân tiếp nhận từ khá sớm (trước năm 2006) và hiện nay các mô hình nuôi cá song trong ao, trong long đều cho hiệu quả kinh tế cao.

Các địa phương có điều kiện thuận lợi đặt lồng như Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An… thì có thể nuôi cá song trong lồng. Địa phương có điều kiện xây dựng ao như Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hải Phòng… có thể nuôi cá song trong ao. Các hình thức nuôi nuôi ao hay lồng đối với cá song đều cho hiệu quả kinh tế cao.

Cá giò: Viện 1 đã làm chủ được công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá giò từ những năm 2002, đến năm 2005 thì công nghệ sản xuất giống cá giò đã hoàn thiện và ổn định. Từ năm 2006, Viện đã chuyển giao công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá giò cho các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Phú Yên, Khánh Hòa, Kiên Giang.

Cá Hồng Mỹ: Đây là đối tượng nhập nội, Viện 1 lần đầu tiên nhập trứng cá Hồng Mỹ thụ tinh từ Đài Loan từ năm 1999, từ đó Viện đã nghiên cứu từ đặc điểm sinh học, ương nuôi và tạo đàn cá bố mẹ. Cho đến năm 2003, Viện 1 đã thành công và làm chủ công nghệ sản xuất giống, nuôi thương phẩm cá Hồng Mỹ và cũng là cơ sở đầu tiên, duy nhất trên cả nước có đàn cá bố mẹ, có công nghệ sản xuất giống và nuôi cá Hồng Mỹ, từ đó đến nay công nghệ này đã được chuyển giao cho người dân khắp các tỉnh ven biển trong cả nước.

Sản xuất giống và nuôi cá chim vây vàng: Đây cũng là công nghệ mà Viện 1 đã làm chủ, hiện nay Viện 1 đang chủ động chương trình chọn giống cá chim có sức sinh trưởng cao làm vật liệu cho sản xuất con giống, đây là tiền đề để phục vụ nuôi cá chim quy mô công nghiệp ngoài biển khơi.

Hàu biển: Viện 1 là đơn vị đầu tiên đưa đối tượng này từ nước ngoài về Việt Nam từ năm 2002 (từ Úc) và 2006 (từ Đài Loan) và đã nghiên cứu thành công sản xuất giống hàu đầu tiên tại Việt nam. Hiện nay công nghệ sản xuất giống và nuôi hàu biển đã được chuyển giao cho sản xuất, phát triển rộng khắp ở các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định và các tỉnh ven biển miền Trung.

Ngao dầu, ngao Bến Tre: Viện 1 cũng là đơn vị đầu tiên nghiên cứu thành công và sản xuất ngao dầu, ngao Bến Tre, hiện nay công nghệ này đã được chuyển giao cho sản xuất phổ biến.

Những công nghệ về đối tượng mặn, lợ tiếp tục chuyển giao:

- Chuyển giao công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá nhụ 4 râu.

- Chuyển giao công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm rươi.

- Chuyển giao công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm tôm tít.

Cá nhụ, rươi, tôm tít là các đối tượng được Viện 1 triển khai nghiên cứu thành công những năm gần đây. Hiện nay công nghệ sản xuất giống và nuôi các đối tượng này đang được Viện hoàn thiện về kỹ thuật và đang hoàn thiện thủ tục hồ sơ pháp lý để được công nhận là tiến bộ mới, tiến bộ kỹ thuật, trước khi chuyển giao và nhân rộng cho sản xuất.

Xem thêm
Nghệ An: Tôm chết hàng loạt, nghi do bệnh mới

Tôm chết nhiều trên diện tích khoảng 25ha, trong đó phần đa xuống giống chưa được bao lâu. Đây là hồi chuông báo động đối với nghề hoàng kim một thời ở Nghệ An.

Điều động 1 kíp tàu tuần tra, phòng chống khai thác IUU

Từ ngày 22/4, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu điều động 1 kíp tàu tuần tra, kiểm soát kết hợp tuyên truyền phòng, chống khai thác IUU trên vùng biển do đơn vị quản lý.

Xuất khẩu thủy sản 2 tháng đầu năm tăng 22,3%

Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, trong 2 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 1,3 tỷ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm 2023.

Có máy tời kéo thuyền, ngư dân khỏe re

QUẢNG TRỊ Chiếc máy tời nhỏ gọn nổ xình xịch, kéo theo thuyền đánh cá lên bờ một cách nhẹ nhàng. Ngư dân vì thế giảm được sức người trong khai thác hải sản.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm