| Hotline: 0983.970.780

PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi: 'Hợp nhất hai Bộ là giải pháp bao trùm cho nuôi biển'

Thứ Hai 03/03/2025 , 14:04 (GMT+7)

Nói tới câu chuyện nuôi biển là chúng ta đã khẳng định là phải ứng dụng công nghệ cao và thân thiện với môi trường.

Một cuộc cách mạng

Việc hợp nhất Bộ NN-PTNT và Bộ Tài nguyên và Môi trường với tên gọi mới là Bộ Nông nghiệp và Môi trường nằm trong một chủ trương lớn, có tính cách mạng. Điều này giúp giải quyết không ít vướng mắc tồn đọng lâu nay giữa hai bên nhưng chưa làm được.

Ví dụ như sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của một số ngành/lĩnh vực, sự chưa rõ ràng về quản lý Nhà nước thống nhất và quản lý Nhà nước theo lĩnh vực chuyên ngành hay sự chia cắt trong quá trình xử lý những vấn đề cụ thể, đặc biệt gần đây là cấp phép sử dụng khu vực biển cho nuôi trồng thủy sản trên biển (gọi tắt là nuôi biển).

PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi, Đại biểu Quốc hội khóa XV, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Thủy sản Việt Nam. Ảnh: Hồng Thắm.

PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi, Đại biểu Quốc hội khóa XV, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Thủy sản Việt Nam. Ảnh: Hồng Thắm.

Những vướng mắc này không hẳn do pháp luật chia cắt mà nhiều khi xuất phát từ các văn bản dưới luật và các thủ tục hành chính giữa hai Bộ, ngành/lĩnh vực. Nếu hai Bộ ngồi lại với nhau sớm hơn, có thể nhiều vấn đề đã được giải quyết từ trước.

"Thực tế trên cho thấy, việc sáp nhập hai Bộ để có phương án tổng thể, toàn diện, ví dụ, cho một vùng nuôi biển an toàn là một cơ hội lớn, mang lại lợi ích hiếm có", PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi nói.

Bản thân tôi với tư cách là Đại biểu Quốc hội cũng đã nhận được nhiều ý kiến của người dân. Thậm chí, một nhóm ngư dân ở Quảng Ninh sau cơn bão Yagi (bão số 3) cũng đề nghị cần triển khai rốt ráo hơn vấn đề giao mặt nước biển.

Do đó, việc sáp nhập hai Bộ có thể coi là giải pháp bao trùm để không phải chỉ các cán bộ có liên quan ngồi được với nhau, mà đây đã trở thành nhiệm vụ chung của Bộ và ngành. Đây là sự thành công rất đáng phấn khởi. Hy vọng sắp tới các vướng mắc sẽ sớm được giải quyết, nhất là vấn đề cấp phép sử dụng các khu vực biển.

Không còn câu chuyện “con gà và quả trứng”

Trước đây, giữa hai Bộ luôn tồn tại câu chuyện “con gà và quả trứng”, tức là ai/việc gì làm trước, ai/việc gì làm sau, dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm. Nay, khi lĩnh vực thủy sản được thống nhất trong một cơ quan quản lý Nhà nước, các đơn vị liên quan như Cục Biển và Hải đảo Việt Nam về cơ bản vẫn giữ nguyên vai trò, còn Vụ Pháp chế sáp nhập làm một sẽ đảm nhiệm thực thi lồng ghép các văn bản quy phạm pháp luật. Điều này tạo điều kiện thuận lợi hơn cho ngành thủy sản, nhất là lĩnh vực nuôi biển.

Tôi nghĩ động tác đầu tiên là các bên liên quan phải ngồi với nhau để rà soát các vướng mắc, rào cản đối với những người nuôi trồng thủy sản trên biển, vướng cái gì, vướng ở đâu, từ đó đưa ra các biện pháp sửa đổi phù hợp. Đồng thời cũng nên tham vấn ý kiến rộng rãi, kể cả các tổ chức quần chúng, xã hội liên quan tới nông nghiệp và môi trường nói chung và lĩnh vực nuôi trồng thủy sản nói riêng. Có như vậy thông tin mới đa chiều để đưa ra được giải pháp chỉnh trang cụ thể và mang tính lâu dài.

Đây cũng là cơ hội để rà soát, xem xét và chỉnh sửa lại Luật Tài nguyên môi trường biển và hải đảo 2015 và Luật Thủy sản 2017 cho phù hợp với thực tiễn hiện nay.

Bản thân nuôi biển đã là xanh vì nó là cách thức để giảm khai thác, giúp cho nguồn lợi thủy sản phục hồi trở lại, tận dụng tiềm năng môi trường nuôi còn rất lớn. Ảnh: Hồng Thắm.

Bản thân nuôi biển đã là xanh vì nó là cách thức để giảm khai thác, giúp cho nguồn lợi thủy sản phục hồi trở lại, tận dụng tiềm năng môi trường nuôi còn rất lớn. Ảnh: Hồng Thắm.

Bên cạnh đó, cũng là cơ hội để khẳng định lại và thống nhất sự hiểu biết, nhận thức chung về vai trò của nuôi biển là phương thức để chuyển đổi sinh kế, tái cơ cấu ngành thủy sản, giảm tỷ lệ khai thác để phục hồi nguồn lợi. Đồng thời, cũng tăng thêm đáng kể thị phần xuất khẩu của Việt Nam từ hoạt động nuôi biển. Đây là nguồn lợi rất lớn, quan trọng, chính vì thế, Thủ tướng đã ban hành Đề án nuôi biển quốc gia, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa thực hiện được là bao.

Nói nuôi biển gặp khó khăn, nhưng người nuôi biển lại phụ thuộc vào sự quản lý trực tiếp, đặc biệt là có nguồn vốn hỗ trợ từ phía Nhà nước. Trong khi một số tổ chức quốc tế hoặc doanh nghiệp đầu tư vào nuôi biển công nghệ cao tại Việt Nam vẫn được tiến hành và rất thành công, đơn cử như Australis từ khoảng 20 năm nay và gần đây là Đề án thử nghiệm nuôi biển của Vingroup ở Khánh Hòa...

Chúng ta cần nghiên cứu mô hình này để có thêm bài học kinh nghiệm và áp dụng phù hợp trong điều kiện cụ thể ở từng địa phương. Không nên tách biệt doanh nghiệp trong nước hay quốc tế mà phải tạo môi trường đầu tư thuận lợi để nghề nuôi biển nước ta phát triển mạnh mẽ hơn.

Hiện nay, với một tinh thần mới về cuộc cách mạng thể chế thì nên có nhiều hình thức đa dạng để huy động nguồn lực. Trong đó có đầu tư ngân sách của Nhà nước, khuyến khích đầu tư từ người dân, đầu tư theo cơ chế hợp tác công - tư, đầu tư tư quản trị công, đầu tư công quản trị tư,… Đây là thời cơ rất lớn mà ngành nông nghiệp và môi trường mới nên chớp lấy để trở thành “người tiên phong”.

Nói gì thì nền tảng môi trường và cơ sở tài nguyên vẫn là những yếu tố quyết định cho các mục tiêu kinh tế trong dài hạn, duy trì tăng trưởng xanh. Chính vì thế phải coi đây là cơ hội lớn và cần nghiêm túc triển khai thực hiện.

Chữ “xanh” cần được hiểu theo nhiều cấp độ

Bản thân nuôi biển đã là "xanh" vì nó là cách thức để giảm khai thác, giúp cho nguồn lợi thủy sản phục hồi trở lại, tận dụng tiềm năng môi trường nuôi còn rất lớn.

Tuy nhiên, trong nuôi biển, chữ “xanh” cần được hiểu theo nhiều cấp độ. "Xanh" ở cấp độ chung là quan hệ (nhìn từ góc độ tài nguyên và môi trường) giữa nuôi biển với khai thác thủy sản và các lĩnh vực liên quan khác như nói trên. Thứ hai là "xanh" trong phạm vi nội hàm của hoạt động nuôi biển. Vì thế, nói tới câu chuyện nuôi biển là chúng ta đã khẳng định là phải ứng dụng công nghệ cao, thân thiện với môi trường và đầu tư lớn. Vì lý do nào đó mà bỏ qua các khía cạnh này thì nuôi biển sẽ thất bại.

Cần hướng đến nuôi biển công nghệ cao, thông minh, sạch hay nuôi sinh thái, thân thiện với môi trường. Ảnh: Hồng Thắm.

Cần hướng đến nuôi biển công nghệ cao, thông minh, sạch hay nuôi sinh thái, thân thiện với môi trường. Ảnh: Hồng Thắm.

Nuôi biển nằm trong không gian mở, vùng biển mở, điều kiện tự nhiên rất khắc nghiệt. Thuận lợi rất lớn, tiềm năng khá dồi dào nhưng lại rất dễ bị tổn thương bởi những rủi ro từ tự nhiên, hành vi của con người và các yếu tố ngoại cảnh khác. Vì vậy, ngoài những cơ hội thì vẫn còn đó rất nhiều thách thức. Điều này đòi hỏi đã nuôi biển thì phải là công nghệ cao và môi trường được kiểm soát hiệu quả. Cũng như muốn vươn ra biển xa hơn, xuống sâu hơn thì không thể bằng những chiếc “thuyền thúng” mà phải sử dụng những chiếc thuyền to hơn, trang bị hiện đại hơn.

Nhìn từ góc độ môi trường, bản thân nuôi biển vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm. Bởi, bên cạnh tính liên thông (xuyên biên giới - transboundary) của môi trường biển, thì các loài sinh vật sống trong biển và các hoạt động trên biển cũng theo động lực của dòng chảy có thể dễ dàng tác động trực tiếp vào các khu nuôi biển. Vì vậy, nếu nuôi biển không tiếp cận cẩn trọng và tổng hợp liên ngành thì sẽ chịu tác động rất lớn từ các hoạt động khai thác, sử dụng biển khác. Ví dụ như, hoạt động hàng hải, sự cố tràn dầu, du lịch biển và tác động môi trường từ đất liền… Những yếu tố này nằm ngoài khả năng kiểm soát của người nuôi biển.

Bên cạnh đó, không chỉ từ môi trường biển xung quanh, mà bản thân nuôi biển cũng thải ra biển một lượng thức ăn dư thừa và các chất thải mang tính hữu cơ của đối tượng nuôi như tôm, cá sau vụ thu hoạch cũng phân hủy nhanh và phân tán rất rộng, tác động xấu đến lợi ích của cá ngành khác, nhất là du lịch biển, ven biển.

Hướng đến nuôi biển công nghệ cao, thông minh

Chúng ta cần hướng đến nuôi biển công nghệ cao, thông minh, sạch hay nuôi sinh thái, thân thiện với môi trường.

Vì thế cần tính toán mật độ lồng nuôi, khích thước lồng nuôi trong một đơn vị không gian biển cụ thể; xác định kích thước và mật độ con nuôi trong một lồng; lựa chọn chủng loại thức ăn phù hợp và quy trình cho ăn không dư thừa; biện pháp quản trị khu nuôi và quản lý môi trường khả thi; phác đồ nuôi biển phù hợp với đối tượng nuôi và kiển soát được; quy mô lồng nuôi phải phù hợp về mặt rộng cũng như độ sâu của khu biển, phù hợp với điều kiện thủy động lực học của vùng nuôi; chuẩn bị tốt các biện pháp quản lý và xử lý rủi ro (thiên tai, môi trường nuôi…) sao cho phát huy cao nhất quy luật của biển (thuận thiên). Đặc biệt là khả năng tự làm sạch của biển - ưu điểm lớn nhất của môi trường biển tự nhiên.

Tuy nhiên, khả năng tự làm sạch của biển là hữu hạn, nếu vượt quá năng lực tải của khu vực biển sẽ không thể phát huy được khả năng tự làm sạch này. Lúc đó, chúng ta còn tự chuốc thêm khó khăn, thách thức, thiệt hại kinh tế.

Nếu nuôi biển không tiếp cận cẩn trọng và tổng hợp liên ngành thì sẽ chịu hoạt động rất lớn từ các hoạt động khai thác, sử dụng biển khác. Ảnh: Hồng Thắm.

Nếu nuôi biển không tiếp cận cẩn trọng và tổng hợp liên ngành thì sẽ chịu hoạt động rất lớn từ các hoạt động khai thác, sử dụng biển khác. Ảnh: Hồng Thắm.

Cuối cùng là công tác quản lý, quản trị vùng nuôi. Mô hình nuôi biển trong phạm vi vùng biển 3 hải lý của Australis hay Đề án thử nghiệm của Vingroup và sắp tới sẽ triển khai nuôi thí điểm ngoài 3 hải lý tại Khánh Hòa cho thấy, việc quản trị, quản lý, đưa công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI)… để điều chỉnh mức độ thức ăn, bảo đảm an toàn vùng nuôi theo quy trình “khép kín” là hết sức quan trọng. Bởi điều này sẽ không để lại lượng tồn dư trong môi trường biển, không gây ra ô nhiễm môi trường biển và dịch bệnh cho vật nuôi. Như vậy sẽ đảm bảo vùng nuôi luôn sạch và đạt được mục tiêu thân thiện với môi trường.

Nuôi biển đòi hỏi sự phối hợp cũng như tổ chức rất chặt chẽ, bởi rủi ro rất cao, mức đầu tư lớn nhưng thường cho năng suất cao. Do đó, ngoài việc xem xét, chỉnh sửa các văn bản quy phạm pháp luật thì cũng cần rà soát lại quy hoạch không gian biển ở cấp độ địa phương. Bởi, vừa rồi một số địa phương chưa tiến hành phân vùng chức năng biển (Marine function zoning) sau khi Quốc hội thông qua quy hoạch không gian biển (Marine spatial planning). Khi phương án phân vùng không gian biển cấp địa phương được thông qua thì mới điều chỉnh lại không gian biển ưu tiên cho nuôi biển từ nay đến 2030 và xa hơn cho hợp lý.

Trên cơ sở đó cũng nên tổ chức lại hoạt động nuôi biển. Nếu làm theo kiểu “ai thích nuôi thì nuôi”, chạy theo lợi nhuận trước mắt, bỏ qua trách nhiệm môi trường…, thì không thể có kết quả nuôi biển theo đúng nghĩa của nó. Nó tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, bởi chỉ cần con giống mang mầm bệnh là sẽ lây ngay ra “hàng xóm” trên biển, “phải nói đến phút, đến giờ chứ đừng nói đến ngày”, nhanh lắm. Do đó, cơ quan quản lý và người nuôi biển phải rất nghiêm túc trong vấn đề này.

Ngoài ra, người nuôi biển cần ra biển với “tâm thức mới, tư thế mới”. Nghĩa là phải thay đổi cách nghĩ, cách làm, đầu tư nhiều hơn với kỹ thuật cao hơn, “đúng tầm”…

Cùng với đó, chú trọng đào tạo lại nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ sản xuất mới của nuôi biển. Người nuôi dù là khu vực tư nhân hay công, cá nhân hay tổ chức cũng đều phải có các chứng chỉ về nuôi biển, quản trị vùng nuôi, môi trường nuôi, kiến thức pháp luật liên quan thì mới được triển khai.

Lưu ý rằng, tiềm năng và giá trị nuôi biển ở nước ta đem lại sẽ là rất lớn. Vì thế, phát triển nuôi biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bền vững đã trở thành một chủ trương nhất quán, quan trọng trong chuyển đổi xanh quốc gia theo tinh thần Nghị quyết 36 về phát triển bền vững kinh tế biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo tiếp tới của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, sự đồng hành của ngư dân, hy vọng lĩnh vực nuôi biển sẽ có những đóng góp xứng đáng, hòa nhập cùng đất nước trong “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.

(Đại biểu Quốc hội khóa XV, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Thủy sản Việt Nam)

Xem thêm
Tích hợp để nông nghiệp và tài nguyên - môi trường không còn 'lệch pha'

ĐBSCL Tích hợp nông nghiệp và tài nguyên - môi trường mở ra cơ hội lớn cho kinh tế nông nghiệp nhưng cần chiến lược đồng bộ, chính sách linh hoạt, sự phối hợp chặt chẽ.

Từ 1/3, ô tô điện không còn được miễn 100% lệ phí trước bạ

Bắt đầu từ ngày 1/3/2025, ô tô điện chạy pin đăng ký lần đầu tại Việt Nam sẽ không còn được hưởng mức lệ phí trước bạ 0% như trước.

CHIA BUỒN

Đảng ủy, Ban Biên tập, Công đoàn và toàn thể cán bộ, nhân viên Báo Nông nghiệp Việt Nam xin chia buồn cùng bà quả phụ Ma Thị Châm và gia quyến.

‘Di sản vàng’ bên bờ biển xanh: [Bài cuối] Làng du lịch cộng đồng

Đêm ở làng Gò Cỏ, gió vi vu như tiếng thì thầm của người Sa Huỳnh cổ vọng lên từ lòng đất cùng với sóng biển rì rầm kể chuyện ngàn xưa...

Bình luận mới nhất